PHÚC ÂM:
Ga
15,12-17
Điều
Thầy truyền dạy anh em là hãy yêu thương nhau.
Tin
Mừng Chúa Giê-su Ki-tô theo thánh Gio-an.
12 Khi ấy, đến giờ lìa bỏ thế
gian mà về với Chúa Cha, Đức Giê-su nói với các môn đệ rằng : “Đây là điều răn
của Thầy : anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em. 13 Không
có tình thương nào cao cả hơn tình thương của người đã hy sinh tính mạng vì bạn
hữu của mình. 14
Anh em là bạn hữu của Thầy, nếu anh em thực hiện những điều Thầy truyền dạy. 15 Thầy
không còn gọi anh em là tôi tớ nữa, vì tôi tớ không biết việc chủ làm. Nhưng Thầy
gọi anh em là bạn hữu, vì tất cả những gì Thầy nghe được nơi Cha Thầy, Thầy đã
cho anh em biết.
16 “Không phải anh em đã chọn
Thầy, nhưng chính Thầy đã chọn anh em, và cắt cử anh em để anh em ra đi, sinh
được hoa trái, và hoa trái của anh em tồn tại, hầu tất cả những gì anh em xin
cùng Chúa Cha nhân danh Thầy, thì Người ban cho anh em. 17 Điều Thầy truyền dạy anh em là
hãy yêu thương nhau.”
Suy niệm:
Yêu
thương nhau
Mầu nhiệm Tử Nạn và Phục Sinh là đỉnh cao chói sáng của tình yêu
Chúa Giêsu trao ban cho nhân loại. Nay Chúa mời gọi ta suy ngắm. Hãy cảm nghiệm
tình yêu cao cả đó để hợp nhất yêu thương nhau.
Trong bài Tin mừng hôm
nay, ta cần ghi nhớ ba lời dạy của Đức Giêsu.
Thứ nhất, Ngài ban lệnh
truyền yêu thương, và tình yêu thương ấy trọn vẹn đến mức dám hiến mạng vì người
mình yêu. Ở đây, Đức Giêsu muốn dùng chính bản thân Ngài, cuộc đời Ngài như một
mẫu mực, một khơi gợi: “Anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh
em”.
Thứ hai, Đức Giêsu muốn
tương quan giữa người môn đệ và Ngài là một tương quan gần gũi, thân thiết đến
mức như một người bạn: “Anh em là bạn hữu của Thầy”.
Thứ ba, Đức Giêsu cho biết,
trong đường đời và trong sứ mạng của người môn đệ, không phải là cho họ chọn
Ngài, nhưng chính Ngài đã chọn gọi họ.
Hôm nay, ta được nhắc nhớ
để xây dựng một tình bạn với Đức Giêsu – là nơi, là Đấng mà ta có thể gần gũi,
thân thiết và gởi gắm tâm sự… Ngài cho phép ta trở nên “bạn hữu” của Ngài. Biết
bao lần ta thấy hãnh diện vì được làm bạn với người này người khác. Nhưng có
bao giờ ta cảm thấy hạnh phúc vì được làm bạn, vì tình bạn giữa ta và Đức
Giêsu?
Mong sao, ta đối xử với
tha nhân bằng con tim yêu mến, bằng con tim thương xót, chứ không bằng con tim
ích kỷ dửng dưng, như lời kêu gọi thường xuyên của Đức Thánh Cha Phanxicô trong
các sứ điệp của ngài.
Mong sao, qua thánh lễ mà
ta tham dự cách sống động và ý thức; qua các bí tích mà ta lãnh nhận với tất cả
lòng tin và sự khát khao; qua những khoảnh khắc trong ngày ta dành để hướng về Chúa
trong tinh thần cầu nguyện, ta thật sự
trở nên “bạn hữu” của Đức Giêsu.
Sống Lời Chúa:
Mọi thứ Luật lệ là để phục vụ con người, chứ
không bao giờ ngược lại (Mc 2, 27-28)
Cầu nguyện:
Lạy
Chúa Giêsu con thuộc lòng mười điều răn, con hiểu rằng mến Chúa yêu người là điều
cốt lõi. Nhưng trong thực tế đời thường, con lại đối xử với nhau không theo
tiêu chuẩn tình yêu. Lòng con đầy ích kỷ, tham vọng, và được che đậy cách khéo
léo. Gia đình con chưa thực sự hiệp nhất trong tình yêu Chúa. Bầu khí gia đình
chưa thật sự trên thuận dưới hòa, con cái chưa thảo hiếu, vợ chồng chưa thương
yêu nhau. Xin cho con ý thức rằng yêu thương anh em bằng
tình yêu Chúa là con đang hòa điệu với nhịp đập của trái tim Chúa và là dấu chứng
cho mọi người nhận ra Chúa là tình yêu.
Lẽ sống:
Chữ
Thập Ðỏ
Buổi sáng ngày 24/6/1859,
Henri Dunant, một thương gia trẻ tuổi người Thụy
Sĩ, thức giấc với nhiều bận tâm. Từ mấy ngày nay, anh đang trọ tại một lữ quán
nghèo thuộc miền Castiglione delle Stiviere bên Italia. Anh đến Italia với
một công tác rất táo bạo, đó là gặp cho kỳ được Hoàng Ðế Napoleon đệ tam của
nước Pháp để xin cấp cho anh giấy phép được thiết lập một số nhà máy xay lúa
tại Algerie, lúc bấy giờ đang là thuộc địa nước Pháp...
Từ trong quán trọ nhìn ra,
anh thấy từng đoàn binh sĩ Pháp di chuyển về cánh đồng Solferino... Và những gì
phải xảy ra đã xảy ra... 300 ngàn con người từ hai phía đã giáp chiến. Tiếng
súng nổ, tiếng người la hét giãy giụa. Khi màn đêm xuống, tiếng súng thưa dần,
người ta chỉ còn nghe thấy tiêng rên la của các thương binh từ hai phía... Giờ
phút này Henri Dunant không còn nghĩ gì đến dự án thiết lập các nhà máy xay lúa
tại Algerie nữa. Thay vào đó, nỗi oán ghét chiến tranh và sự cảm thông với các
thương binh mỗi lúc một xâm chiếm tâm hồn anh, nhất là khi người ta bắt đầu di
chuyển các thương binh vào các làng mạc...
Một người lính Pháp vừa lê
lết vừa xin nước uống. Nguyên một bàn chân đãbị cắt đi khỏi thân thể. Dunant
dìu anh vào quán trọ. Cùng với các y sĩ của các phe đang tham chiến, Henri
Dunant đã động viên tất cả dân làng để mang thực phẩm và thuốc men đến cho các
thương binh, bất kể họ thuộc bên nào.
Trong những ngày ấy, thay
cho dự án kinh doanh, Henri Dunant đã dành thời giờ đê viết lại hồi ký về trận
Solferino. Anh mô tả lại tất cả những gì anh đã chứng kiến và kêu gọi tất cả
những người thiện chí trên thế giới hãy giúp anh để chấm dứt thảm cảnh ấy.
Không mấy chốc, cuốn sách đã được dịch ra nhiều thứ tiếng và được gửi đến các
Chính Phủ trên thế giới. Ngay tức khắc, một tổ chức nhân đạo tại Génève đã thỏa
thuận trợ giúp cho công tác của Dunant. Anh đi khắp các thủ đô Âu Châu để
thuyết phục các nhà cầm quyền ký vào một quy ước nhìn nhận quyền bất khả xâm
phạm của các thương binh, các y tá và tất cả những ai phục vụ trong ngành quân
y...
Ngày 26/10/1963, đại diện của 16 nước đã gặp nhau tại Génève. Tổ chức do Henri Dunant khai sinh được chính
thức chào đời ngày hôm đó. Người ta gọi tổ chức này là Hội Chữ Thập Ðỏ, do biểu
tượng của một chữ thập đỏ in trên nền trắng... Dấu hiệu này đã được treo trên
các lều, các nhà cửa thuộc về phong trào này... Ðó là món quà lớn nhất mà Henri
Dunant đã tặng cho nhân loại.
Trong tập hồi ký trận
Solferino, Henri Dunant đã ghi lại như sau: Có nhiều binh sĩ Áo dưới quyền chỉ
huy của Hoàng Ðế Prancois Joseph bị bắt làm tù binh. Henri Dunant đã săn sóc họ
tận tình. Thấy thế, một bà cụ già trong làng đã phản đối vì cho rằng người Áo
là kẻ thù. Henri Dunant đã nói với bà cụ già như sau: "Trong sự đau
khổ, không còn khác biệt giữa bạn và thù nữa.. Tất cả chúng ta đều là anh em
với nhau".
Nhìn mọi người như anh em
của mình, một cái nhìn như thế hẳn phải xuất phát từ một niềm tin rất sâu
sắc...
Năm 1901, lần đầu tiên,
giải thưởng Nobel hòa bình đã được trao tặng và người được danh dự ấy chính là
vị sáng lập ra Hội Chữ Thập Ðỏ. Mười năm sau, con người đã trao tặng cho thế
giới một món quà cao quý như thế đã qua
đời trong một bệnh viện dành cho những người hành khất nghèo nàn bên Thụy Sĩ. Gia
tài của ông đẻ lại là vài cuốn sách, năm ba lá thư và một di chúc thiêng liêng
như sau: "Hoặc
tôi là một môn đệ của Ðức Kitô giống như các tín hữu của những thế kỷ đầu hoặc
tôi không là gì hết".
Ðặc biệt của các tín hữu
sơ khai và cũng là lý tưởng của Henri Dunant chính là lòng mến, lòng mến đã biến họ
nhận ra mọi người như là anh em, con cùng một Cha trên Trời... Mỗi người Kitô
chúng ta cũng có thể lập lại lời di chúc của vị sáng lập Hội Chữ Thập Ðỏ:
"Hoặc tôi tôn trọng và yêu thương tha nhân hoặc tôi không là gì hết".
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét