CHÚA THĂNG THIÊN
Phúc Âm : Mc 16,15-20
Đức Giê-su được đưa lên trời và ngự bên hữu Thiên Chúa.
Kết thúc Tin Mừng Chúa Giê-su Ki-tô theo thánh Mác-cô.
15 Khi ấy, Đức Giê-su hiện ra với Nhóm
Mười Một và nói với các ông rằng : “Anh em hãy đi khắp tứ phương thiên hạ, loan
báo Tin Mừng cho mọi loài thọ tạo. 16 Ai tin và chịu phép rửa, sẽ được cứu độ ; còn
ai không tin, thì sẽ bị kết án. 17 Đây là những dấu lạ sẽ đi theo những ai có lòng
tin : nhân danh Thầy, họ sẽ trừ được quỷ, sẽ nói được những tiếng mới lạ. 18 Họ sẽ
cầm được rắn, và dù có uống nhằm thuốc độc, thì cũng chẳng sao. Và nếu họ đặt
tay trên những người bệnh, thì những người này sẽ được mạnh khoẻ.”
19 Nói xong, Chúa Giê-su được đưa lên
trời và ngự bên hữu Thiên Chúa. 20 Còn các Tông Đồ thì ra đi rao giảng khắp nơi,
có Chúa cùng hoạt động với các ông, và dùng những dấu lạ kèm theo mà xác nhận lời
các ông rao giảng.
Suy niệm:
Quê trời
Chúa Giêsu đã hoàn tất sứ mạng Chúa Cha trao phó, như chính Người
đã khẳng định: “Phần con, con đã tôn vinh Cha ở dưới đất, khi hoàn tất công
trình Cha đã trao cho con” (Ga 17,4). Và, như người lính sau khi hoàn thành
nhiệm vụ trở về với ngành nguyệt quế chiến thắng, Đức Giêsu được cất lên trời
trong vinh quang và giữa tiếng muôn thiên thần tung hô chúc tụng.”Được cất
lên”, đó là kiểu nói của Kinh Thánh. Độc giả Do Thái dễ dàng liên tưởng đến
trường hợp của ngôn sứ Elia và ông Enốc trong Cựu ước. Hai vị này đã được Chúa cất
lên không trung, sau khi đã hoàn thành nhiệm vụ ngôn sứ.
Việc Chúa về trời trước hết diễn tả vinh quang chiến thắng. Qua sự
phục sinh, Chúa Giêsu đã chiến thắng tử thần. Người cũng chiến thắng những cám
dỗ của thế gian nhằm lôi kéo Người từ bỏ thực thi ý định của Chúa Cha. Chúa
Giêsu về trời, đem theo những dấu tích của cuộc khổ nạn (dấu đinh), như bằng
chứng của sự hy sinh tự hiến để thánh ý Chúa Cha được nên trọn.
Việc Chúa Giêsu về trời đánh dấu sự hoàn tất của công trình cứu độ
được thực hiện qua biến cố thập giá. Tuy vậy, sự hoàn tất này lại mở ra một
giai đoạn mới trong kế hoạch cứu rỗi của Thiên Chúa. Lịch sử cứu độ đã sang một
trang mới kể từ biến cố phục sinh. Nhận được lệnh truyền của Chúa, các môn đệ
đã hân hoan ra đi thi hành sứ vụ. Đây là một cuộc lên đường mới, đầy hứng khởi
nhiệt tình. Việc Chúa được cất lên trời không làm cho các môn đệ u sầu buồn bã,
trái lại các ông lại hân hoan vui vẻ, vì tin chắc có Chúa ở với mình. Từ nay,
các ông được trang bị bằng sức mạnh của Chúa Thánh Thần, cùng với khả năng làm
phép lạ mà chính Chúa đã ban cho các ông, như lời căn dặn trước khi Người về
trời. Với lời “sai đi” của Chúa, lãnh vực truyền giáo không còn giới hạn trong
xứ Palestina, nhưng đã mở ra những chân trời mới. Nước của Chúa không còn giới
hạn ở những cột mốc lãnh thổ, nhưng lan rộng đến mọi nền văn hóa, đến mọi dân
tộc. Chúa đã về trời. Cũng như trời rộng bao la mênh mông thế nào, thì vương
quốc bình an mà Người đã khởi sự thiết lập cũng sẽ rộng lớn như vậy.
Chúa Giêsu đã nhập thể và mang lấy thân phận con người như chúng
ta. Sau khi kết thúc cuộc đời trần gian, Người đã khải hoàn về thiên quốc. Việc
Chúa Giêsu về trời cũng khẳng định với chúng ta, đất và trời từ nay không còn
cách biệt nữa. Dưới đất này đã có trời, và trên trời cao đã có đất. Quả vậy,
nếu định nghĩa trời là nơi Thiên Chúa ngự trị, thì trong “cõi người ta” này,
Thiên Chúa đang hiện hữu để chúc lành và dẫn dắt chúng ta bằng cánh tay yêu
thương của Ngài. Nếu định nghĩa đất là nơi con người sinh sống, thì trên trời,
hiện đã có một “Con Người” là Đức Giêsu, mẫu mực chung cho tất cả mọi người về
cách sống cũng như về sự hy sinh vì tha nhân. Vì thế, liền sau khi Chúa Giêsu
được cất lên, trong khi các môn đệ còn bỡ ngỡ lưu luyến, thì hai sứ thần đã nói
với họ: “Hỡi người xứ Galilê, sao còn đứng nhìn trời? Đức Giêsu, Đấng vừa lìa
bỏ các ông và được rước lên trời, cũng sẽ ngự đến y như các ông đã thấy Người
lên trời”. Qua những lời này, các sứ thần muốn khẳng định với các ông rằng, các
ông hãy quay về với bổn phận, vì tuy Chúa đã về trời, Người vẫn luôn hiện diện
trên mặt đất này với các ông. Từ nay, mọi bước đường truyền giáo của các ông sẽ
có Chúa đi cùng. Người hiện diện thiêng liêng, vô hình nơi trần gian, và Người
sẽ trở lại trong vinh quang vào thời tận
cùng của lịch sử. Chính vì vậy, “Người lên trời không phải để lìa xa thân phận
yếu hèn của chúng con, nhưng để chúng con là chi thể của Người, tin tưởng được
theo Người đến nơi mà chính Người là Ðầu và là Thủ Lãnh của chúng con đã đến
trước” (Kinh Tiền tụng lễ Thăng Thiên).
“Quê Trời” là niềm mơ ước của con người thuộc mọi nền văn hóa, dù
khái niệm về trời rất mông lung bàng bạc. Trong quan niệm dân gian của người
Việt, “Trời” không chỉ là cái vòm màu xanh ở tít trên cao, nhưng là một “Đấng”,
một “Ông”, một “Vị”. Nơi “Ông Trời” người ta tin tưởng cầu xin ơn phù trợ để
mọi sự tốt lành: “Lạy Trời mưa xuống, lấy nước tôi uống, lấy ruộng tôi cày, lấy
đầy bát cơm” (Ca dao). Trời cũng là nơi ở dành cho các anh hùng dân tộc, những
người có công với nước, như trường hợp Thánh Gióng, sau khi đánh giặc Ân, cưỡi
ngựa về trời.
Chúa Giêsu khẳng
định với chúng ta: Quê trời là phần thưởng Chúa Cha dành cho người công chính.
Hạnh phúc Nước trời là được chìm mình trong tình yêu của Chúa Ba Ngôi, cùng với
anh chị em mình. Đó là tình yêu vĩnh cửu, viên mãn, tồn tại muôn đời. Hạnh phúc
Chúa Giêsu hứa ban không phải một thứ “bánh vẽ” xa vời, một thứ “thuốc phiện mê
dân” ảo tưởng, Nước Trời đã hiện diện giữa trần gian, ngay ngày hôm nay, nơi
cuộc đời của mỗi người chúng ta, nếu chúng ta biết đón nhận bằng con tim rộng
mở và tấm lòng chân thành.
Đức Cha
Giuse Vũ Văn Thiên
Giám mục
Giáo phận Hải Phòng
Cầu
nguyện:
Lạy Chúa Giêsu, xin cho
con biết nỗ lực xây dựng trần gian trong niềm mong đợi hạnh phúc nước trời.
Lẽ sống:
Ði một đoạn đường với Chúa
Người Ấn Ðộ có kể một câu
chuyện ngụ ngôn như sau: Có một người thanh niên nọ khao khát được nhìn thấy
Chúa. Ðêm ngày, anh cầu nguyện liên lỉ chỉ mong sao cho ước nguyện của mình
thành sự thật. Quả thực, không bao lâu, Thiên Chúa đã đến với anh dưới hình dạng
của một con người đẹp đẽ, uy quyền, trầm tĩnh.
Chúa đề nghị với anh:
"Con có thể đi với Ta một quãng đường không?". Người thanh niên cảm
thấy hạnh phúc hơn bao giờ hết. Chúa và anh đồng hành với nhau như một đôi bạn
tri âm. Ði một lúc, Chúa dừng lại nói với anh: "Ta khát nước, con có thể
đi tìm cho Ta một ít nước không?".
Người thanh niên hăm hở đi
tìm nước. Lòng anh tràn ngập hạnh phúc. Còn gì sung sướng bằng đi tìm nước để
mang về cho Chúa... Nhưng, anh đi tìm mãi mà không thấy nơi nào có nước... Anh
đi mãi để rồi cuối cùng dừng lại bên một bờ sông. Anh đang chuẩn bị lấy nước
mang về cho Chúa, thì tình cờ một cô gái đẹp xuất hiện bên bờ sông. Cô gái đẹp
đến độ người thanh niên không còn thấy cảnh vật xung quanh, cũng như không còn
nghĩ đến việc mang nước về cho Chúa.
Anh nấn ná đến làm quen với
cô gái. Họ thương nhau, lấy nhau và sinh được nhiều con cái. Không gì đầm ấm, hạnh
phúc cho bằng. Nhưng một cơn ôn dịch xảy đến. Người thanh niên đưa vợ con đi đến
một nơi khác. Nhưng khi họ đi qua một chiếc cầu, thì thình lình mưa gió thổi đến,
nước dâng lên kéo cả vợ con anh theo. Người đàn ông bám vào được một gốc cây lớn.
Anh khóc thương cho thân phận bọt bèo của vợ con cũng như chính kiếp cô đơn lạc
loài của anh.
Giữa lúc đó, Thiên Chúa xuất
hiện trước mặt anh: Ngài mỉm cười hỏi anh: "Này con, con có mang nước về cho
Ta không? Con làm gì để Ta phải chờ đợi gần cả tiếng đồng hồ".
Một người cha nhân từ mòn
mỏi trông đứa con hoang trở về: đó là hình ảnh cảm động nhất về Thiên Chúa mà
Chúa Giêsu đã mạc khải cho chúng ta trong bài dụ ngôn "Người Con Hoang
Ðàng". Từng ngày, người cha ra đầu ngõ để trông đợi. Khi đứa con còn ở đằng
xa, ông đã chạy đến để giang rộng đôi cánh tay để ôm trọn đứa con vào lòng,
không một lời quở trách, không một cử chỉ bất bình... Thiên Chúa cũng đối xử với chúng ta như thế.
Chúng ta tưởng mình đi tìm Ngài, chúng ta tưởng Ngài ẩn mặt với chúng ta. Nhưng
kỳ thực, chính Ngài mới là Ðấng đeo đuổi chúng ta, tìm kiếm chúng ta, chờ đợi
chúng ta. Chúng ta tưởng mình đang đi đến với Chúa, nhưng kỳ thực chính Ngài
đang ở với chúng ta.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét