PHÚC ÂM:
Ga 18,
1 – 19. 42
Tin
Mừng Chúa Giêsu Kitô Theo Thánh Gioan
"Sự Thương Khó Đức Giêsu Kitô, Chúa
chúng ta".
18, 1 Sau khi nói những lời đó, Đức
Giê-su đi ra cùng với các môn đệ, sang bên kia suối Kít-rôn. Ở đó, có một thửa
vườn, Người cùng với các môn đệ đi vào. 2 Giu-đa, kẻ nộp Người, cũng biết nơi này, vì Người
thường tụ họp ở đó với các môn đệ. 3 Vậy, Giu-đa tới đó, dẫn một toán quân cùng đám
thuộc hạ của các thượng tế và nhóm Pha-ri-sêu ; họ mang theo đèn đuốc và khí giới.
4 Đức
Giê-su biết mọi việc sắp xảy đến cho mình, nên tiến ra và hỏi : "Các anh
tìm ai ?" 5
Họ đáp : "Tìm Giê-su Na-da-rét." Người nói : "Chính tôi đây."
Giu-đa, kẻ nộp Người, cũng đứng chung với họ. 6 Khi Người vừa nói : "Chính
tôi đây", thì họ lùi lại và ngã xuống đất. 7 Người lại hỏi một lần nữa :
"Các anh tìm ai ?" Họ đáp : "Tìm Giê-su Na-da-rét." 8 Đức
Giê-su nói : "Tôi đã bảo các anh là chính tôi đây. Vậy, nếu các anh tìm bắt
tôi, thì hãy để cho những người này đi." 9 Thế là ứng nghiệm lời Đức Giê-su đã
nói: "Những người Cha đã ban cho con, con không để mất một ai."
10 Ông Si-môn Phê-rô có sẵn
một thanh gươm, bèn tuốt ra, nhằm người đầy tớ vị thượng tế, mà chém đứt tai phải
của y. Người đầy tớ ấy tên là Man-khô. 11 Đức Giê-su nói với ông Phê-rô : "Hãy xỏ gươm
vào bao. Chén mà Chúa Cha đã trao cho Thầy, lẽ nào Thầy chẳng uống ?"
12 Bấy giờ toán quân và viên
chỉ huy cùng đám thuộc hạ của người Do-thái bắt Đức Giê-su và trói Người lại. 13 Trước
tiên, họ điệu Đức Giê-su đến ông Kha-nan là nhạc phụ ông Cai-pha. Ông Cai-pha
làm thượng tế năm đó. 14 Chính ông này đã đề nghị với người Do-thái là
nên để một người chết thay cho dân thì hơn.
15 Ông Si-môn Phê-rô và một
môn đệ khác đi theo Đức Giê-su. Người môn đệ này quen biết vị thượng tế, nên
cùng với Đức Giê-su vào sân trong của tư dinh vị thượng tế. 16 Còn
ông Phê-rô đứng ở phía ngoài, gần cổng. Người môn đệ kia quen biết vị thượng tế
ra nói với chị giữ cổng, rồi dẫn ông Phê-rô vào. 17 Người tớ gái giữ cổng nói với ông
Phê-rô : "Cả bác nữa, bác không thuộc nhóm môn đệ của người ấy sao ?"
Ông liền đáp : "Đâu phải." 18 Vì trời lạnh, các đầy tớ và thuộc hạ đốt than
và đứng sưởi ở đó ; ông Phê-rô cũng đứng sưởi với họ. 19 Vị thượng tế tra hỏi Đức Giê-su về
các môn đệ và giáo huấn của Người. 20 Đức Giê-su trả lời: "Tôi đã nói công khai
trước mặt thiên hạ ; tôi hằng giảng dạy trong hội đường và tại Đền Thờ, nơi mọi
người Do-thái tụ họp. Tôi không hề nói điều gì lén lút. 21 Sao ông lại hỏi tôi ? Điều tôi đã
nói, xin cứ hỏi những người đã nghe tôi. Chính họ biết tôi đã nói gì." 22 Đức
Giê-su vừa dứt lời, thì một tên trong nhóm thuộc hạ đứng đó vả vào mặt Người mà
nói : "Anh trả lời vị thượng tế như thế ư ?" 23 Đức Giê-su đáp : "Nếu tôi
nói sai, anh chứng minh xem sai ở chỗ nào ; còn nếu tôi nói phải, sao anh lại đánh
tôi ?" 24
Ông Kha-nan cho giải Người đến thượng tế Cai-pha, Người vẫn bị trói.
25 Còn ông Si-môn Phê-rô thì
vẫn đứng sưởi ở đó. Người ta nói với ông : "Cả bác nữa, bác không thuộc
nhóm môn đệ của ông ấy sao ?" Ông liền chối : "Đâu phải." 26 Một
trong các đầy tớ của vị thượng tế, có họ với người bị ông Phê-rô chém đứt tai,
lên tiếng hỏi : "Tôi đã chẳng thấy bác ở trong vườn với ông ấy sao ?"
27 Một
lần nữa ông Phê-rô lại chối, và ngay lúc ấy gà liền gáy.
28 Vậy, người Do-thái điệu Đức
Giê-su từ nhà ông Cai-pha đến dinh tổng trấn. Lúc đó trời vừa sáng. Nhưng họ
không vào dinh kẻo bị nhiễm uế mà không ăn lễ Vượt Qua được. 29 Vì thế,
tổng trấn Phi-la-tô ra ngoài gặp họ và hỏi : "Các người tố cáo ông này về
tội gì ?" 30
Họ đáp: "Nếu ông này không làm điều ác, thì chúng tôi đã chẳng đem nộp cho
quan." 31
Ông Phi-la-tô bảo họ : "Các người cứ đem ông ta đi mà xét xử theo luật của
các người." Người Do-thái đáp: "Chúng tôi không có quyền xử tử ai cả."
32 Thế
là ứng nghiệm lời Đức Giê-su đã nói, khi ám chỉ Người sẽ phải chết cách nào.
33 Ông Phi-la-tô trở vào
dinh, cho gọi Đức Giê-su và nói với Người : "Ông có phải là vua dân
Do-thái không ?" 34 Đức Giê-su đáp : "Ngài tự ý nói điều ấy,
hay những người khác đã nói với ngài về tôi ?" 35 Ông Phi-la-tô trả lời : "Tôi
là người Do-thái sao ? Chính dân của ông và các thượng tế đã nộp ông cho tôi.
Ông đã làm gì ?" 36 Đức Giê-su trả lời : "Nước tôi không thuộc
về thế gian này. Nếu Nước tôi thuộc về thế gian này, thuộc hạ của tôi đã chiến đấu
không để tôi bị nộp cho người Do-thái. Nhưng thật ra Nước tôi không thuộc chốn
này." 37 Ông Phi-la-tô liền hỏi : "Vậy
ông là vua sao ?" Đức Giê-su đáp : "Chính ngài nói rằng tôi là vua.
Tôi đã sinh ra và đã đến thế gian nhằm mục đích này : làm chứng cho sự thật. Ai
đứng về phía sự thật thì nghe tiếng tôi."
38
Ông Phi-la-tô nói với Người : "Sự thật là gì ?"
Nói thế rồi, ông lại ra gặp người Do-thái
và bảo họ : "Phần ta, ta không tìm thấy lý do nào để kết tội ông ấy. 39 Theo
tục lệ của các người, vào dịp lễ Vượt Qua, ta thường tha một người nào đó cho
các người. Vậy các người có muốn ta tha vua dân Do-thái cho các người không
?" 40 Họ
lại la lên rằng : "Đừng tha nó, nhưng xin tha Ba-ra-ba !" Mà Ba-ra-ba
là một tên cướp.
19. 1 Bấy giờ ông Phi-la-tô
truyền đem Đức Giê-su đi và đánh đòn Người. 2 Bọn lính kết một vòng gai làm vương
miện, đặt lên đầu Người, và khoác cho Người một áo choàng đỏ. 3 Họ đến
gần và nói : "Kính chào Vua dân Do-thái !", rồi vả vào mặt Người.
4 Ông Phi-la-tô lại ra
ngoài và nói với người Do-thái : "Đây ta dẫn ông ấy ra ngoài cho các người,
để các người biết là ta không tìm thấy lý do nào để kết tội ông ấy." 5 Vậy, Đức
Giê-su bước ra ngoài, đầu đội vương miện bằng gai, mình khoác áo choàng đỏ. Ông
Phi-la-tô nói với họ : "Đây là người !" 6 Khi vừa thấy Đức Giê-su, các thượng
tế cùng các thuộc hạ liền kêu lên rằng : "Đóng đinh, đóng đinh nó vào thập
giá !" Ông Phi-la-tô bảo họ : "Các người cứ đem ông này đi mà đóng đinh
vào thập giá, vì phần ta, ta không tìm thấy lý do để kết tội ông ấy." 7 Người
Do-thái đáp lại : "Chúng tôi có Lề Luật ; và chiếu theo Lề Luật, thì nó phải
chết, vì nó đã xưng mình là Con Thiên Chúa."
8 Nghe lời đó, ông Phi-la-tô
càng sợ hơn nữa. 9 Ông lại trở vào dinh và nói với Đức Giê-su: "Ông từ đâu
mà đến ?" Nhưng Đức Giê-su không trả lời. 10 Ông Phi-la-tô mới nói với Người:
"Ông không trả lời tôi ư ? Ông không biết rằng tôi có quyền tha và cũng có
quyền đóng đinh ông vào thập giá sao ?" 11 Đức Giê-su đáp lại : "Ngài
không có quyền gì đối với tôi, nếu Trời chẳng ban cho ngài. Vì thế, kẻ nộp tôi
cho ngài thì mắc tội nặng hơn."
12 Từ đó, ông Phi-la-tô tìm
cách tha Người. Nhưng dân Do-thái kêu lên rằng : "Nếu ngài tha nó, ngài
không phải là bạn của Xê-da. Ai xưng mình là vua, thì chống lại Xê-da." 13 Khi
nghe thấy thế, ông Phi-la-tô truyền dẫn Đức Giê-su ra ngoài. Ông đặt Người ngồi
trên toà, ở nơi gọi là Nền Đá, tiếng Híp-ri là Gáp-ba-tha. 14 Hôm ấy là ngày áp lễ Vượt Qua,
vào khoảng mười hai giờ trưa. Ông Phi-la-tô nói với người Do-thái : "Đây
là vua các người !" 15 Họ liền hô lớn: "Đem đi! Đem nó đi ! Đóng đinh
nó vào thập giá !" Ông Phi-la-tô nói với họ : "Chẳng lẽ ta lại đóng đinh
vua các người sao ?" Các thượng tế đáp : "Chúng tôi không có vua nào
cả, ngoài Xê-da." 16 Bấy giờ ông Phi-la-tô trao Đức Giê-su cho họ đóng
đinh vào thập giá.Vậy họ điệu Đức Giê-su đi. 17 Chính Người vác lấy thập giá đi
ra, đến nơi gọi là Cái Sọ, tiếng Híp-ri là Gôn-gô-tha ; 18 tại đó, họ đóng đinh Người vào thập
giá, đồng thời cũng đóng đinh hai người khác nữa, mỗi người một bên, còn Đức
Giê-su thì ở giữa. 19 Ông Phi-la-tô cho viết một tấm bảng và treo
trên thập giá ; bảng đó có ghi : "Giê-su Na-da-rét, Vua dân Do-thái."
20
Trong dân Do-thái, có nhiều người đọc được bảng đó, vì nơi Đức Giê-su bị đóng đinh
là một địa điểm ở gần thành. Tấm bảng này viết bằng các tiếng : Híp-ri, La-tinh
và Hy-lạp. 21
Các thượng tế của người Do-thái nói với ông Phi-la-tô : "Xin ngài đừng viết
: ' Vua dân Do-thái ', nhưng viết : ' Tên này đã nói : Ta là Vua dân Do-thái
'." 22
Ông Phi-la-tô trả lời: "Ta viết sao, cứ để vậy !"
23 Đóng đinh Đức Giê-su vào
thập giá xong, lính tráng lấy áo xống của Người chia làm bốn phần, mỗi người một
phần ; họ lấy cả chiếc áo dài nữa. Nhưng chiếc áo dài này không có đường khâu,
dệt liền từ trên xuống dưới. 24 Vậy họ nói với nhau : "Đừng xé áo ra, cứ bắt
thăm xem ai được." Thế là ứng nghiệm lời Kinh Thánh : Áo xống tôi, chúng đem
chia chác, cả áo dài, cũng bắt thăm luôn. Đó là những điều lính tráng đã làm.
25 Đứng gần thập giá Đức
Giê-su, có thân mẫu Người, chị của thân mẫu, bà Ma-ri-a vợ ông Cơ-lô-pát, cùng
với bà Ma-ri-a Mác-đa-la. 26 Khi thấy thân mẫu và môn đệ mình thương mến đứng
bên cạnh, Đức Giê-su nói với thân mẫu rằng : "Thưa Bà, đây là con của
Bà." 27
Rồi Người nói với môn đệ : "Đây là mẹ của anh." Kể từ giờ đó, người
môn đệ rước bà về nhà mình.
28 Sau đó, Đức Giê-su biết
là mọi sự đã hoàn tất. Và để ứng nghiệm lời Kinh Thánh, Người nói : "Tôi
khát !" 29 Ở đó, có một bình đầy giấm. Người
ta lấy miếng bọt biển có thấm đầy giấm, buộc vào một nhành hương thảo, rồi đưa
lên miệng Người. 30 Nhắp xong, Đức Giê-su nói : "Thế là đã hoàn tất !"
Rồi Người gục đầu xuống và trao Thần Khí.
(Quỳ gối thinh lặng thờ lạy trong giây lát)
31 Hôm đó là ngày áp lễ, người
Do-thái không muốn để xác chết trên thập giá trong ngày sa-bát, mà ngày sa-bát đó
lại là ngày lễ lớn. Vì thế họ xin ông Phi-la-tô cho đánh giập ống chân các người
bị đóng đinh và lấy xác xuống. 32 Quân lính đến, đánh giập ống chân người thứ nhất
và người thứ hai cùng bị đóng đinh với Đức Giê-su. 33 Khi đến gần Đức Giê-su và thấy Người
đã chết, họ không đánh giập ống chân Người. 34 Nhưng một người lính lấy giáo đâm
vào cạnh sườn Người. Tức thì, máu cùng nước chảy ra. 35 Người xem thấy việc này đã làm chứng,
và lời chứng của người ấy xác thực ; và người ấy biết mình nói sự thật để cho cả
anh em nữa cũng tin. 36 Các việc này đã xảy ra để ứng nghiệm lời Kinh
Thánh : Không một khúc xương nào của Người sẽ bị đánh giập. 37 Lại có lời Kinh Thánh khác : Họ sẽ nhìn lên Đấng
họ đã đâm thâu.
38 Sau đó, ông Giô-xếp, người
A-ri-ma-thê, xin ông Phi-la-tô cho phép hạ thi hài Đức Giê-su xuống. Ông Giô-xếp
này là một môn đệ theo Đức Giê-su, nhưng cách kín đáo, vì sợ người Do-thái. Ông
Phi-la-tô chấp thuận. Vậy, ông Giô-xếp đến hạ thi hài Người xuống. 39 Ông
Ni-cô-đê-mô cũng đến. Ông này trước kia đã tới gặp Đức Giê-su ban đêm. Ông mang
theo chừng một trăm cân mộc dược trộn với trầm hương. 40 Các ông lãnh thi hài Đức Giê-su,
lấy băng vải tẩm thuốc thơm mà quấn, theo tục lệ chôn cất của người Do-thái. 41 Nơi Đức
Giê-su bị đóng đinh có một thửa vườn, và trong vườn, có một ngôi mộ còn mới, chưa
chôn cất ai. 42
Vì hôm ấy là ngày áp lễ của người Do-thái, mà ngôi mộ lại gần bên, nên các ông
mai táng Đức Giê-su ở đó.
Suy niệm:
Sự thinh
lặng của thập giá
Thập Giá Chúa Giêsu không phải là dấu hiệu của sự thất bại tủi nhục
mà là biểu hiệu của toàn thắng vinh quang. Thập giá là ngai tòa vua Giêsu tình
yêu hiển thắng trong sứ mệnh cứu độ nhân loại.
Hôm nay, chúng ta tưởng nhớ
đến cái chết của Chúa Giêsu, Chúa của chúng ta.
Chúa đã chết... Chết như
nhiều người đã chết.
Ngày 5/9/1997, cả thế giới bàng hoàng và xúc động khi nghe tin Mẹ
Têrêsa chết, chết tại thành phố Calcutta, sau một cơn đau tim đột ngột, hưởng
thọ 87 tuổi.
Ngay sau cái chết của mẹ,
báo chí đã đưa lên trang nhất những hàng tít lớn: "Mẹ của những người nghèo khổ đã ra đi"
- "Vị nữ thánh của những người cùng khổ không còn nữa" - "Vị nữ
thánh giữa đời thường đã vĩnh viễn ra đi".
Không phải chỉ thế giới đau
buồn và cảm động trước cái chết của mẹ, mà nhiều nhà lãnh đạo trên thế giới
cũng bày tỏ lòng thương tiếc sâu sắc. Tổng thống Pháp Jacques Chirac đã gửi đến
Calcutta bức điện chia buồn như sau: "Buổi tối hôm nay đã có ít tình yêu hơn, ít lòng trắc ẩn
hơn và cũng ít ánh sáng hơn trên thế giới".
Tổng Thống Mỹ Bill Clinton
đã nói: "Mẹ
là người luôn gây ngạc nhiên, một trong những vĩ nhân của thời đại này".
Thủ tướng Tony Blair của nước
Anh đã gửi đến Calcutta lời phân ưu: "Trong một tuần đầy bi kịch, thế giới lại càng buồn hơn
vì một trong những người phục vụ nhiều lòng trắc ẩn nhất đã ra đi".
Nước Albani, quê hương thứ
nhất của mẹ tuyên bố "Cả nước sẽ để tang mẹ ba ngày".
Tại Ấn Độ, nơi người Công giáo chỉ là thiểu số, thủ tướng Inder
Kamar đã tuyên bố tổ chức lễ an táng mẹ tại sân vận động quốc gia New Delhi
theo nghi thức quốc táng.
Vâng, đó là một cái chết,
cái chết thật đẹp, đẹp còn hơn một giấc mơ. Ngày an táng mẹ, Đức Thánh Cha đã cử
đặc sứ của Ngài tới. Rất nhiều nhà lãnh đạo đạo đời trên thế giới đã có mặt. Từ
trước cho đến nay, chưa có nhà lãnh đạo nào trên thế giới này, được yêu thương đến
như thế.
Mẹ Têresa đã chết.
Và gần 2000 năm trước Chúa
Giêsu cũng đã chết.
Ngài đã chết, một cái chết
mà Ngài đã báo trước: "Con Người sẽ bị nộp cho các Thượng tế và Kinh sĩ. Họ sẽ
lên án xử tử Người và sẽ nộp Người cho dân ngoại. Họ sẽ nhạo báng Người, khạc
nhổ vào Người, sẽ đánh đòn và giết chết Người" (Mc 10,33-34).
Trong suốt ngày thứ Sáu Tuần Thánh hôm nay, Giáo hội như muốn mời
gọi chúng ta đi vào thinh lặng, từ các trang trí cho đến những bài ca phụng vụ,
tất cả đều đưa chúng ta vào cõi thinh lặng. Thinh lặng để nhìn ngắm Chúa Giêsu
trên Thập Giá, thinh lặng để lắng nghe tiếng nói từ Thập Giá. Thập Giá vẫn mãi
mãi là một mầu nhiệm.
Tại sao điều đó có thể xảy
ra cho Thiên Chúa?
Tại sao Con Một Thiên Chúa
lại có thể chịu chết treo trên Thập Giá?
Trong một cuộc đối thoại tưởng
tượng với người trộm lành chịu treo bên phải Chúa Giêsu, thánh Augustinô đã hỏi
người trộm lành như sau: "Làm sao ông có thể hiểu được những gì xảy ra bên cạnh
ông, trong khi đó chúng tôi là những nhà chuyên môn, là những nhà tiến sĩ luật,
chúng tôi lại không hiểu được những lời ứng nghiệm của Thánh Kinh. Ngay trước mắt
chúng tôi ông có đọc Thánh Kinh không? Ông có biết tiên tri Isaia đã loan báo về
cuộc tử nạn của Chúa như thế nào không?"
Người trộm lành mới trả lời
như sau: "Không.
Tôi chưa bao giờ học hỏi về Kinh Thánh, nhưng Chúa Giêsu đã nhìn tôi và trong
cái nhìn của Ngài, tôi đã hiểu được tất cả mọi sự".
Một vị Hồng Y già trong cơn
hấp hối đã nhắn nhủ như sau: "Chúng ta đã nói rất nhiều lời hay ý đẹp về sự đau khổ,
tôi cũng đã từng hăng say làm như thế, nhưng xin hãy nhắn với các linh mục: Ðừng
nói gì cả, chúng ta không biết gì về đau khổ cả".
Về cuộc tử nạn
và cái chết của Chúa Giêsu, thiết tưởng chúng ta chỉ nên giữ thinh lặng. Trong thinh lặng, chúng ta mới cảm nhận được cái nhìn yêu thương
trìu mến của Chúa Giêsu. Và trong cái nhìn ấy chúng ta mới nghe được chính tiếng
nói của Ngài. Chỉ có kẻ đau khổ mới có thể đưa chúng ta vào nỗi khổ đau của họ.
Chỉ có Chúa Giêsu mới có thể đưa chúng ta vào những nỗi khổ đau của Ngài. Sự
thinh lặng đưa chúng ta vào mầu nhiệm của khổ đau.
Trong hai người cùng chịu
treo trên Thập Giá bên cạnh Chúa Giêsu, một người đã không ngừng lên tiếng kêu
gào rủa xả, trong khi đó kẻ được mệnh danh là trộm lành chỉ biết thốt lên lời
van xin cứu vớt. Ðối với chúng ta, điều đó thật là phải lẽ, xứng với tội lỗi
chúng ta. Kẻ trộm lành quả thực đã đi sâu vào mầu nhiệm của Thập Giá, ông đã nhận
ra thân phận tội lỗi của mình. Cái chết của Chúa Giêsu trên Thập Giá trước tiên là một bày tỏ
về bộ mặt tội lỗi của nhân loại. Mãi mãi Thập Giá vẫn là biểu trưng của sự độc
ác của con người. Ðó là đỉnh cao trí tuệ của con người trong việc sáng chế ra
những phương thế để hành hạ nhau, để loại trừ nhau, để chém giết nhau. Ðó là bản
án của tội lỗi nhân loại trải qua mọi thời đại.
Nhìn lên Thập Giá Chúa
Giêsu, mỗi người chúng ta chỉ có thể đấm ngực ăn năn về chính tội lỗi của mình
mà thôi. Thập Giá của Chúa Giêsu vẫn luôn có đó để chiếu rọi vào thân phận tội
lỗi của con người. Thập Giá không chỉ là mạc khải về tội lỗi của con người, nhưng
tội lỗi còn là mặt trái của một nguồn ánh sáng vô biên. Ðó là ánh sáng của tình
yêu. Cái chết của Chúa Giêsu trên Thập Giá là biểu tỏ của một tình yêu tha thứ
cho đến cùng. Có lẽ người trộm lành đã hiểu được điều đó khi ông quay nhìn sang
Chúa Giêsu trên Thập Giá. Trong ánh mắt của Chúa Giêsu, người trộm lành chỉ có
thể thấy bừng lên tình yêu nhân từ và tha thứ khi được tình yêu Chúa Giêsu chiếu
dọi vào. Bên cạnh Chúa Giêsu, người trộm lành được ôm ấp với cái nhìn trìu mến
và tha thứ của Ngài.
Sống Lời Chúa:
Dưới chân Thập Giá của Ngài còn có Mẹ và một số người bạn dõi theo
Ngài cho đến cùng. Mẹ và những người đó đứng nhìn lên Chúa trong lặng yên. Với Mẹ và những người bạn đó, Chúa Giêsu
cũng tôn trọng bằng ánh mắt yêu thương, trìu mến của Ngài. Ngài cũng đưa Mẹ
Maria và những người đó vào trong những mầu nhiệm khổ đau của Ngài. Cùng với Mẹ, chúng
ta cũng hãy để cho tâm hồn chìm lắng xuống, hãy để cho bao bận tâm, sầu muộn và
khổ đau riêng tư chìm xuống và hòa nhập vào mầu nhiệm Thập Giá của Chúa Giêsu.
Hãy để cho Ngài ôm ấp trọn lấy chúng ta trong tình yêu bao dung, tha thứ của
Ngài. Hãy để cho ánh mắt yêu thương của Ngài đốt cháy tâm hồn khô lạnh vì tội lỗi
và ích kỷ của chúng ta.
Cầu nguyện:
Lạy
Chúa, xin cho chúng con biết sống xứng đáng với tình thương của Chúa và mãi
trung thành với hồng ân cao quí Chúa đã dành cho chúng con.
Lẽ sống:
Giỗ
Tổ Hùng Vương
Ngày mồng 10 tháng 3 Âm Lịch là ngày giỗ tổ Hùng Vương...
Theo tục truyền, vua Ðế Minh là cháu ba đời vua Thần
Nông, đi tuần thú phương Nam, đến núi Ngũ Linh (nay thuộc tỉnh Hà Nam) gặp một
nàng tiên, lấy nhau đẻ ra một người con gọi là Lộc Tục. Sau, Ðế Minh truyền
ngôi cho con trưởng làm vua phương Nam xưng là Kinh Dương Vương, quốc hiệu là
Xích Quỷ.
Ranh giới nước Xích Quỷ lúc bấy giờ phía Bắc giáp
Ðộng Ðình Hồ (tức Hồ Nam), phía Nam giáp Hồ Tôn (Chiêm Thành), phía Tây giáp Ba
Thục, phía Ðông giáp bể Nam Hải.
Kinh Dương Vương làm vua nước Xích Quỷ vào khoảng năm
Nhâm Tuất (Tức là năm 2879 trước Tây Lịch) và lấy con gái Ðộng Ðình Quân là
Long Nữ đẻ ra Sùng Lãm, nối ngôi làm vua, gọi là Lạc Long Quân.
Lạc Long Quân lấy con gái vua Ðế Lai tên là Âu Cơ đẻ
ra một lần 100 con trai. Sau này, Lạc Long Quân chia cho nàng 50 con để dắt lên
núi, còn 50 con, ông đưa về hướng biển Nam Hải.
Lạc Long Quân phong cho người con trai trưởng sang
làm vua nước Văn Lang, xưng là Hùng Vương, sáng lập ra nước Việt Nam sau này...
"Vật đổi sao rời, phúc tổ
vẫn lưu nền cổ tích
Nước nguồn cây cối, đạo người nên
nhớ đạo Hùng Vương".
Hai câu thơ khuyết danh này như muốn nhắc nhở chúng
ta về công đức của tổ tiên. Ngày 10 tháng 3 Âm Lịch, chúng ta không biết là
ngày húy nhật của vua Hùng Vương nào, chỉ biết rằng người xưa đã biết chọn một
ngày để con cháu về sau muôn đời có dịp tụ họp nhau lại mà nhớ đến tổ tiên, nhớ
đến công đức của người đã sáng lập ra dòng họ, nhất là sáng lập ra quốc gia.
Cách đây vài năm, tổng thống Rigan của Hoa Kỳ đã về
thăm Ái Nhĩ Lan. Ông muốn nói lên mối dây liên kết giữa ông, những người da
trắng đang sinh sống tại Bắc Mỹ và tổ tiên của họ... Là người, ai cũng thấy cần
có một tổ quốc, một quê hương trong đó cả một dòng giống được phát sinh và liên
kết với nhau.
Cũng như tất cả những
người tha hương, những người Việt Nam đang sống ở hải ngoại lúc nào cũng hướng
về quê hương của họ. Quê hương là một cái gì vô cùng cao quý và thiêng liêng mà
chỉ khi nào mất đi người ta mới cảm thấy luyến nhớ. Nhưng nói đến quê hương
không có nghĩa là gợi lại một mảnh đất, một phong cảnh, một dòng sông... Nói đến
quê hương là nói đến những người cùng bởi một ông tổ mà ra, những người cùng
nói chung một thứ tiếng, những người có cùng một màu da, hay nói như người Việt
Nam chúng ta, những người đồng bào, nghĩa là những người cùng chung một cái bọc
mà sinh ra... Ðó là ý nghĩa của huyền thoại 100 cái trứng, trong câu chuyện lập
quốc của chúng ta.
Nhưng những người công giáo không chỉ ý thức về tình
máu mủ ruột thịt của những người cùng một dân tộc, họ còn có một gia đình rộng
rãi hơn: đó là gia đình nhân loại.
Nhà vô thần Voltaire đã nói: nếu Thiên Chúa không có thì
chúng ta phải tạo ra Ngài... Vì sao thế? Thưa, để cuộc đời chúng ta có một ý
nghĩa, để chúng ta biết chúng ta có chung một người Cha, và tất cả mọi người,
dù không đồng một ngôn ngữ, dù không đồng một màu da, tất cả chúng ta đều là
anh em với nhau. Và kết luận tất yếu của chân lý đó là: chúng ta phải thương yêu
nhau.
Người trong cùng một
nước, có cùng một ông tổ phải thương yêu nhau vượt lên trên tất cả mọi khác
biệt về địa lý, về tôn giáo, về quan điểm chính trị. Ðó là tất cả ý nghĩa
của ngày giỗ tổ Hùng Vương mà chúng ta cử hành hằng năm. Ngày giỗ tổ ấy cũng
còn mời gọi chúng ta đi xa hơn nữa để nhìn nhận mọi người đều là con cái Chúa
và đều là anh em với nhau.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét