Phúc Âm: Lc 1,39-47
“Em thật có phúc, vì đã tin”.
Tin
Mừng Chúa Giê-su Ki-tô theo thánh Lu-ca.
39
Khi ấy, bà Ma-ri-a lên đường, vội vã đi đến miền núi, vào một thành thuộc chi tộc
Giu-đa. 40
Bà vào nhà ông Da-ca-ri-a và chào bà Ê-li-sa-bét. 41 Bà Ê-li-sa-bét vừa nghe tiếng bà
Ma-ri-a chào, thì đứa con trong bụng nhảy lên, và bà được đầy Thánh Thần. 42 Bà
Ê-li-sa-bét kêu lớn tiếng và nói rằng : “Em được chúc phúc hơn mọi người phụ nữ,
và người con em đang cưu mang cũng được chúc phúc. 43 Bởi đâu tôi được Thân Mẫu Chúa
tôi đến với tôi thế này ? 44 Quả thật, này tai tôi vừa nghe tiếng em chào,
thì đứa con trong bụng đã nhảy lên vì vui sướng. 45 Em thật có phúc, vì đã tin rằng
Chúa sẽ thực hiện những gì Người đã nói với em.”
46
Bấy giờ bà Ma-ri-a nói :
“Linh
hồn tôi ngợi khen Đức Chúa,
47
thần trí tôi hớn hở vui mừng
vì
Thiên Chúa, Đấng cứu độ tôi.”
Suy
niệm:
Với
muôn vàn tước hiệu Giáo Hội và nhân loại dành cho Đức Mẹ, danh hiệu nào cũng đẹp,
danh hiệu nào cũng quí, cũng cao vời. Maria nói lên tất cả. Maria bao hàm mọi ý
nghĩa cao sâu. Viết về Mẹ, nói về Mẹ quả thực không có ngôn ngữ nào, không có
bút pháp nào có thể diễn tả hết về Mẹ, có thể lột hết ý nghĩa cao sâu của danh
từ Mẹ. “Lòng Mẹ bao la như biển Thái
Bình…, nghĩa Mẹ như nước trong nguồn chảy ra”, ngôn từ con người và nhân loại
chỉ có thể nói lên được như thế. Đó là Mẹ trần gian, Mẹ trên trời, Mẹ thiêng
liêng còn cao quí hơn gấp bội.
Danh
hiệu mà Hội Thánh và nhân loại qua bao nhiêu thời đại tuyên xưng, ca ngợi Mẹ,
như muốn nhắc nhở con cái Mẹ trên khắp mặt đất này: “Danh Thánh của Mẹ luôn làm cho con người
ngây ngất, say mê vì Mẹ luôn ở bên con người, Mẹ yêu thương con người, Mẹ ở đâu
Chúa cũng ở đó và ngược lại “.
Trên
trời dưới đất, đừng kể tên Chúa Giêsu, thì chẳng có tên nào trọng, đáng kính và
linh ứng cho bằng tên Ðức Mẹ. Thánh Giêrônimô nói rằng: "Tên Maria chẳng phải cha mẹ hay người thế
gian đặt cho Người, nhưng chính Thiên Chúa soi lòng ông thánh Gioakim và bà
thánh Anna đặt tên ấy cho Mẹ Maria".
Maria,
một tên rất linh thiêng. Nghe tên Maria, các thánh trên trời đều vui mừng, ma
quỉ đều khiếp sợ Người, thế gian được cậy trông.
Tên
Maria là võ khí hiệu lực, là thuẫn vững chắc, bênh chữa ta khỏi thù địch hãm hại
hồn xác.
Biết
bao kẻ vượt biển bị gió bão như vùi dập, biết bao kẻ sắp rơi vào tay kẻ cướp,
quân thù, đã thoát khỏi tai nạn ấy, vì đã tin tưởng kêu tên Maria. Biết bao kẻ
sắp xiêu lòng trước những cơn cám dỗ mãnh liệt, đã được ơn cứu thoát, vì đã tin
tưởng kêu tên Maria. Trên giường bệnh, trong cơn hấp hối, người ta được mạnh sức
cậy trông lòng Thương xót Chúa, khỏi mắc mưu quỷ cám dỗ, vì đã tin tưởng kêu
tên Mẹ Maria.
Thánh
Tích:
Bên
nước Italia có một thiếu nữ đang đi đường giữa một nơi xa vắng, tình cờ gặp một
tên cướp. Tên cướp ấy có tiếng là hung hãn, đã cướp của cùng giết nhiều người.
Giữa
lúc bơ vơ không ai cứu chữa, cô sợ hãi khiếp kinh. Giáp mặt cô, tên cướp bảo rằng:
"Cô hãy nghe ta, bằng không ta sẽ giết".
Trong
cơn nguy khốn, cô chợt nhớ đến Ðức Me, liền kêu tên cực trọng Maria, cô lạy tên
cướp và xin vì Ðức Mẹ mà tha cho mình.
Tên
cướp nghe nói đến Maria thì dừng lại, nghĩ một lúc rồi bảo cô ta:
"Ðược,
vì Ðức Mẹ mà ta tha chết cho cô, nhưng xin cô nhớ cầu cùng Ðức Mẹ cho ta với".
Ta
xem tên cực trọng Ðức Mẹ linh ứng dường nào, tên cướp định hãm hại cô gái, nhưng
vừa nghe tên cực thánh Ðức Mẹ liền đổi lòng, chẳng những tha cho cô ta, mà lại đưa
cô ta qua quãng đường cheo leo ấy nữa.
Lễ kính thánh danh Maria bắt đầu từ Tây
Ban Nha và được Giáo Hội chuẩn nhận vào năm 1513. Đức Giáo Hoàng Innocentê XI đã
cho phổ biến này trên khắp cùng thế giới năm 1683 để cảm tạ tri ân Đức Mẹ, kỷ
niệm biến cố vua Ba Lan John Soboeski đánh bại quân Thổ Nhĩ Kỳ vây hãm thành
Viênna và đe dọa các nước Tây Phương. Lễ này được cử hành chính vào 12/9 mỗi năm
là ngày kỷ niệm chiến thắng nói trên.
Sống Lời Chúa:
+
Càng thực tâm nhiệt thành tôn kính danh hiệu
Maria rất dịu ngọt của Mẹ, con càng đi trên đường của Mẹ. Con nên biết rằng
Thiên Chúa đã ban cho Danh hiệu ấy không biết bao nhiêu đặc ân. Mẹ không thể
nghĩ đến hay nghe đọc đến mà lại không dâng lời cảm tạ Chúa
Cầu
nguyện:
Lạy Mẹ Maria trong cuộc đời đầy
thử thách giăng mắc và cam go, xin Mẹ giúp chúng con luôn biết kêu cầu thánh
danh Mẹ trong mọi trạng huống cuộc đời.
Lẽ sống:
LỄ
THÁNH DANH ĐỨC MẸ
I. THÁNH DANH MARIA
Thánh
Danh Maria theo tiếng Do Thái trong Cựu ước là Myriam, tiếng Aram là Maryam, tiếng
Hy Lạp dịch Cựu ước là Mariam, tiếng Hy Lạp dịch Tân ước là Maria, tiếng Anh là
Mary, tiếng Pháp là Marie, tiếng Latinh là Maria.
Trong
Thánh kinh có tám người mang tên như Thánh Danh Đức Mẹ:
1. Chị ông
Maisen thường gọi là Miriam (Xh 15:20-21; Ds 12:1-10);
2. Một phụ nữ
con gái của Ezra (1 Sb 4:17);
3. Maria Mađalêna,
người phụ nữ được trừ khỏi bảy quỉ (Lc 8:2);
4. Maria chị
Lagiarô và em của Martha (Lc 10:38-42);
5. Maria mẹ của
Thánh Giacôbê và Gioan (Mc 15:40-47);
6. Maria vợ ông
Clopas (Ga 19:25) có lẽ là mẹ của Thánh Giacôbê và Gioan;
7. Maria mẹ của
Thánh Marcô tác giả Phúc âm II (Cv 12:12);
8. Maria là một
Kitô hữu ở Rôma mà Thánh Phaolô gửi lời chào (Rm 16:6).
II. Ý NGHĨA THÁNH DANH MARIA
Thánh
Danh Maria có những ý nghĩa:
1. Theo Thánh
Giêrônimô, Maria tiếng Do Thái có nghĩa là "biển". Do đó, Thánh Bênađô
gọi Đức Mẹ là "Sao biển". Giáo hội có Thánh thi "Ave Maris
Stella".
2. Cũng theo
Thánh Giêrônimô, Maria tiếng Aram là "Marta = Bà Chúa". Tiếng Latinh
là Domina, tiếng Ý là Madona, tiếng Pháp là Notre Dame, tiếng Anh là Our Lady.
3. Maria tiếng
Ai Cập là "mari" nghĩa là được yêu, là "mara" nghĩa là phương
phi, hợp với vẻ thẩm mỹ của Á Đông là "lộng lẫy diễm lệ".
4. Maria tiếng
Ugarit là "mrym" nghĩa là cao sang, uy nghi, tuyệt vời.
5. Theo nhà
Thánh Mẫu học Scheeben, Maria tiếng Do Thái là Miryam biến thành myrrha maris,
stilla maris, stella maris.
6. Maria nghĩa
hay nhất là "làm sáng tỏ" vì Mẹ là bức gương trong, phản chiếu ánh
sáng hằng hữu, là trung gian ánh sáng ơn thánh, là rạng đông và là mỹ nữ lồng
bóng mặt trời.
7. Maria có
nghĩa Tân Evà đem lại ơn Cứu rỗi, tương phản với Evà đem lại ác hoạ.
III. CÁC NHÂN ĐỨC CỦA MẸ MARIA
Mẹ
Maria có 12 nhân đức, đó là:
1) Ba nhân đức đối
thần: Tin, Cậy, Mến.
2) Bốn nhân đức
trụ: Khôn ngoan, Công bằng, Đại đảm, Tiết độ.
3) Ba nhân đức
theo lời khuyên Phúc âm: Thanh khiết, Khó nghèo, Tuân phục.
4) Hai nhân đức
theo gương Chúa Giêsu: Hiền từ và Khiêm nhượng.
IV. BẢY LỜI ĐỨC MẸ NÓI TRONG
CUỘC ĐỜI CHÚA GIÊSU
1.
Mẹ quyết tâm giữ lời khấn trọn đời đồng trinh: "Điều đó xảy đến thế nào được,
vì tôi không biết đến người nam" (Lc 1:34).
2. Mẹ sốt sắng
nhiệt thành phục vụ Chúa: "Này tôi là tôi tớ Chúa" (Lc 1:38).
3. Mẹ trung
thành vâng phục thánh ý Chúa: "Tôi xin vâng như lời thiên sứ truyền"
(Lc 1:38).
4. Mẹ hoan hỉ
chúc tụng Chúa: Linh hồn ngợi khen sự cao cả của Chúa (Lc 1:46-55).
5. Mẹ tỏ ra mẫu
quyền của Mẹ với Chúa Giêsu: "Hỡi Con, sao Con làm như thế? Con thấy Cha
con và Mẹ phải đau khổ tìm Con?" (Lc 2:48).
6. Mẹ yêu thương
thông cảm những nỗi khó khăn người khác: "Họ hết rượu rồi" (Ga 2:3).
7. Mẹ vững tin
quyền phép Chúa: "Người bảo sao, các anh cứ làm như vậy" (Ga 2:5).
V. BẢY NIỀM VUI CỦA MẸ
Thánh
Tôma Canterbury có thói quen đọc bảy kinh Kính mừng kính bảy niềm vui của Mẹ
Maria là:
1. Thiên sứ truyền
tin cho Mẹ;
2. Mẹ đi thăm viếng
Thánh Êlizabeth;
3. Mẹ hạ sinh
Chúa Giêsu tại Bêlem;
4. Các đạo sĩ đến
thờ lạy Ấu Chúa Giêsu;
5. Mẹ tìm thấy
Chúa Giêsu trong đền thánh;
6. Mẹ biết Chúa
Giêsu sống lại;
7. Ngày Mẹ hồn
xác lên trời.
Nhưng một hôm, Mẹ
hiện ra với Thánh Tôma Canterbury mà nói: Hỡi Tôma, lòng sùng kính của con rất đẹp
lòng Mẹ, nhưng tại sao con chỉ nghĩ đến những niềm vui Mẹ đã cảm nghiệm ở dưới đất?
Vậy con hãy tưởng nhớ những niềm vui của Mẹ ở trên trời nữa.
-
Nhưng
làm sao mà con biết được?
-
Con
cũng đọc bảy kinh Kính mừng kính nhớ bảy niềm vui của Mẹ ở trên trời:
1.
Vinh quang của Mẹ vượt trên vinh quang của tất
cả các Thánh;
2. Ánh sáng của
Mẹ chói chang, soi sáng các tầng trời;
3. Mẹ là Nữ Vương
Thiên đàng;
4. Lời cầu xin của
Mẹ luôn được Chúa nhấp nhận;
5. Thiên Chúa
ban thưởng những ai sùng kính Mẹ;
6. Mẹ Maria được
gần nhất Chúa Ba Ngôi;
7. Niềm vui
Thiên đàng của Mẹ cho đến muôn thuở
muôn đời.
VI. NIÊN SỬ CUỘC ĐỜI ĐỨC MẸ
Niên
sử cuộc đời Đức Mẹ hoàn toàn dựa theo niên sử cuộc đời Chúa Giêsu Con của Mẹ:
Trước
Chúa giáng sinh
- Năm 23/20 Sinh
nhật Đức Mẹ, ái nữ của Thánh Gioakim và Thánh Anna.
- Năm 20/17 Đức
Mẹ dâng mình vào đền thờ.
- Năm 11/8 Đức Mẹ
đính hôn với Thánh Giuse (Mt 1:16; Lc 1:27).
- Năm 7 Thiên sứ
Gabrie truyền tin cho Đức Mẹ (Lc 1:26-38).
Đức Mẹ mang thai
Chúa Giêsu (Mt 1:18-25).
Đức Mẹ đi viếng
thăm bà Thánh Êlizabeth (Lc 1:39-56).
- Năm 7/6 Đức Mẹ
sinh Chúa Giêsu tại Bêlem (Lc 2:1-9).
Đức Mẹ đưa Chúa
Giêsu chịu phép cắt bì (Lc 2:21).
Đức Mẹ lên đền tịnh
tẩy và dâng Con (Lc 2:22-24).
Cụ già Simeon
nói tiên tri về Chúa Giêsu và Mẹ (Lc 2:25-35).
Cụ bà Anna nói
tiên tri về Chúa Giêsu (Lc 2:36-38).
- Năm 6/4 Ba vua
đến thờ lạy Ấu Chúa (Mt 2:1-11).
Đức Mẹ và Thánh
Giuse đem Con trốn sang Ai Cập (Mt 2:13-14).
- Năm 4 (?) Đức
Mẹ và Thánh Giuse đem Con trở về Nagiarét (Mt 2:19-23).
Sau
Chúa giáng sinh
- Năm 6 Đức Mẹ
và Thánh Giuse tìm thấy Chúa Giêsu trong đền thờ (Lc 2:41-50).
Đức Mẹ và Thánh
Giuse sống với Chúa Giêsu tại Nagiarét (Lc 2:51).
- Năm 27/28 Mẹ với
Chúa Giêsu đi dự tiệc cưới Cana (Ga 2:1-11).
- Năm 30 Mẹ
Maria trong cuộc sống công khai của Chúa Giêsu (Mt 12:46-50; Mc 3:31-35; Lc
8:19-21; Ga 2:12-13).
Chúa Giêsu gián
tiếp ca ngợi đức tin của Mẹ (Lc 11:27-28).
- Năm 30 Mẹ
Maria dưới chân thánh giá trên đồi Canvê (Ga 19:25-27).
Mẹ Maria và các
tông đồ tại nhà Tiệc ly (Cv 1:14).
Mẹ Maria lên trời
với Chúa Giêsu Con của Mẹ.
VII. NHỮNG BIỂU TƯỢNG ĐỨC MẸ
1.
Rượu; hương dầu thơm (Dc 1:1-3).
2. Lều trại
Kedar; trướng gấm của Salem (Dc 1:5).
3. Mặt trời; vườn
nho (Dc 1:6).
4. Cam tùng toả
mùi thơm nức (Dc 1:12).
5. Hoa thuỷ tiên
cánh đồng Saron; hoa huệ thung lũng sâu (Dc 2:1).
6. Bồ câu nơi kẽ
đá (Dc 2:14).
7. Cột khói ngát
trầm hương (Dc 3:6).
8. Mắt bồ câu
(Dc 4:1).
9. Tháp lầu Đavid
(Dc 4:4).
10. Mật ong nhỏ
giọt (Dc 4:11).
11. Cột bạch ngọc
(Dc 5:15).
12. Đoàn quân
dàn trận (Dc 6:10).
13. Rạng đông; mặt
trăng; mặt trời (Dc 6:10).
14. Môi miệng Đấng
Tối Cao (Hc 24:3).
15. Cột mây (Hc
24:4).
16. Ánh sáng
không mờ phai (Hc 29:6).
17. Vòm trời; vực
sâu (Hc 24:8).
18. Cây trắc diệp
trên núi Hermon (Hc 24:13).
19. Cây cảm lãm
trong cánh đồng; cây tiêu huyền
bên bờ nước (Hc
24:14).
20. Cây quế và dầu
thơm ngát (Hc 24:15).
21. Xạ hương man
mác (Hc 24:15).
22. Hòm bia
Thiên Chúa (Xh 25: 10-16).
23. Hoa hường mầu
nhiệm (Dc 2:1).
24. Vườn địa đường
(St 2:8-14).
25. Tàu Noe (St
6:14-16).
26. Đền thờ
Salomon (1V 6:1-37).
27. Chiếc thang
Giacóp (St 28:12).
VIII. BẢY PHỤ NỮ TIỀN ẢNH ĐỨC
MẸ
Theo
các Giáo phụ, những phụ nữ sau đây trong Cựu ước là những tiền ảnh Đức Mẹ:
1. Bà Sara vợ của
tổ phụ Abraham, son sẻ và đã cao niên mà được Chúa cho hạ sinh một con trai là
Isaac, trưởng tộc một đoàn dân đông đảo (St 21:7-8). Mẹ Maria sinh hạ một cách
lạ lùng Chúa Giêsu là trưởng tử một đoàn em đông đúc.
2. Bà Rakel có một
sắc đẹp dịu hiền khiến cho Giacóp sẵn lòng làm rể ông Laban mười bốn năm để cưới
làm vợ (St 29:17). Sắc đẹp tâm hồn Mẹ Maria khiến Thiên Chúa tuyển chọn Mẹ làm
Mẹ Con của Người nhập thể Cứu thế.
3. Bà Miriam là
chị ông Maisen. Bà đã cứu em khỏi bàn tay sát hại của vua Pharaon, Ai Cập, đã được
đặc ân nói tiên tri, là một trong những phụ nữ đầu tiên qua biển đỏ khô chân, đã
cất tiếng ca ngợi cám ơn Chúa (Xh 15:20). Mẹ Maria đã cộng tác với Con Mẹ cứu
nhân loại khỏi tội lỗi và tử thần.
4. Bà Deborah, dưới
thời quan án của Israel, đã hạ sát Sisơra, đứng cản địch quân Canaan (Tl 4:4).
Mẹ Maria đã chiến thắng Satan địch thù của dân thánh Chúa.
5. Bà Giuđitha vừa
có sắc đẹp vừa có sức mạnh tinh thần. Bà đã hạ sát Holoferne, hùng tướng của
Philitinh, để cứu dân thành Bethulia. Toàn dân ca tụng bà: "Bà là vinh
quang của Giuđêa, là niềm vui của Israel, là niềm hãnh diện của dân tộc chúng
tôi" (Gđt 15:9). Mẹ Maria đã vinh thắng trên Satan và đạp nát đầu nó, và đem
lại vinh dự cho Thiên Chúa, hân hoan cho Thiên Đàng, và niềm hãnh diện cho toàn
thể dân Chúa chọn.
6. Bà Esther là
hoàng hậu của vua Assuerô nước Ba tư, đã cứu dân Israel khỏi nạn diệt vong (Et
2:17). Mẹ Maria là Nữ Hoàng đã cứu dân thánh Chúa khỏi nạn đoạ trầm.
7. Tân Evà. Bà
Evà đã làm cho loài người phải sa đoạ, thì Mẹ Maria là Tân Evà đã làm cho loài
người được phục hồi (Thánh Giustinô).
IX. NHỮNG TƯỚC HIỆU MẸ MARIA
1.
Trạng Sư cùng với Chúa Giêsu là Trạng Sư để bầu chữa cho loài người trước toà
Chúa Cha. Tước hiệu này được Giáo hội dùng từ thời Trung cổ trong kinh Lạy Nữ Vương
và các văn kiện của Thánh Bênađô.
2. Đấng Đồng
Công. Các Đức Giáo hoàng Lêô XIII, Piô X, Piô XI, Piô XII và Công đồng Vatican
II đã minh chứng Mẹ Maria đã đặc biệt đồng công cộng tác với Chúa Kitô trong
công trình Cứu chuộc loài người. Riêng Đức Piô XI đã trực tiếp gọi Mẹ là Đấng Đồng
Công (Coredemptrix).
3. Mẹ rất thánh.
Mẹ là Mẹ toàn thể loài người vì Mẹ sinh ra Chúa Kitô là đầu, mà mọi tín hữu là
chi thể của Nhiệm Thể Chúa Kitô, nên Giáo hội gọi Maria là Mẹ rất thánh của
Chúa và của loài người.
4. Nữ tử Sion.
Tiên tri Isaia và Mica gọi thành Giêrusalem là "con gái Sion". Tiên
tri Giêrêmia gọi "con gái Sion" là dân thành Giêrusalem, ám chỉ toàn
dân thánh Chúa. Trong sách Khải huyền, đoạn 12, Mẹ Maria được ám chỉ là
"con gái Sion" sinh ra một dân tộc mới mà Đầu là Con Trai chiến thắng
Satan.
5. Gương mẫu.
Công đồng Vatican II gọi Mẹ Maria là gương mẫu tuyệt vời và hiếm có, là mẫu mực
của Giáo hội về đức tin, đức ái và hiệp nhất hoàn hảo với Chúa Kitô (LG, 63).
6. Nữ tỳ của
Chúa. Chính Mẹ Maria đã xưng mình là "nữ tỳ" của Chúa khi thiên sứ
truyền tin cho Mẹ (x. Lc 1:38), và Mẹ đã tự phát trong Ca Ngợi khen: "Chúa
đã đoái nhìn thân phận thấp hèn tôi tớ của Người" (Lc 1:48).
7. Đấng phù hộ
các giáo hữu. Đức Piô V thêm vào kinh cầu Đức Bà câu: "Đức Bà phù hộ các
giáo hữu" năm 1571 để cám tạ Mẹ đã giúp đạo binh Công giáo chiến thắng
quân Hồi giáo ở vịnh Lepante, và để kỷ niệm Mẹ dẹp tan bè rối Albigensê nhờ
kinh Mân côi hồi thế kỷ XII. Năm 1815, Đức Piô VII lập lễ Đức Mẹ phù hộ. Đức Mẹ
phù hộ cũng là bổn mạng dòng Salêdiên, của Úc châu và Tân Tây Lan.
8. Đấng Vô nhiễm.
Mẹ Maria đã được đặc ân đầu thai vô nhiễm nguyên tội mà Đức Piô IX đã định tín
năm 1854. Và Mẹ đã hiện ra tại Lộ Đức năm 1858 với Thánh Bernađetta và xưng
mình là "Đấng Vô nhiễm thai".
9. Đấng Trung
gian. Tước hiệu Mẹ trung gian đã được dùng bên Đông phương thế kỷ VI và bên Tây
phương thế kỷ IX. Từ thế kỷ XVII tước hiệu này được dùng khắp nơi trong Giáo hội.
Mẹ trung gian vì Mẹ là Mẹ Thiên Chúa được đầy ơn đứng giữa Thiên Chúa và loài
người; vì Mẹ cộng tác với Chúa Kitô để giao hoà loài người với Thiên Chúa, và
vì Mẹ là Đấng ban phát mọi ơn lành cho con cái Mẹ.
10. Mẹ Thiên
Chúa. Đầu tiên Thánh Hippolitô đã tuyên đọc Mẹ Maria là "Mẹ Thiên
Chúa". Năm 431 Công đồng Êphêsô tuyên tín Mẹ là "Mẹ Thiên Chúa" để
luận án bè rối Nestoriô. Mẹ Maria sinh ra Chúa Giêsu. Mà Chúa Giêsu là Thiên
Chúa. Do đó, Mẹ Maria là Mẹ Thiên Chúa.
11. Mẹ Giáo hội.
Công đồng Vatican II dạy: Giáo hội Công giáo dâng lên Mẹ Maria tình con thảo như
đối với người Mẹ rất dấu yêu (LG, 53). Năm 1964, Đức Phaolô VI tuyên ngôn: Mẹ
Maria là "Mẹ của Giáo hội". Năm 1980, câu "Mẹ Maria là Mẹ Giáo hội"
được thêm vào kinh cầu Đức Bà.
12. Mẹ thương
xót. Tước hiệu Mẹ thương xót đã có từ thế kỷ III. Nhiều vị Thánh đã kêu cầu Mẹ
thương xót. Thánh Đamianô, Thánh Bênađô, và Thánh Anphong kêu cầu Mẹ thương xót
bằng kinh Lạy Nữ Vương. Mẹ hiện ra với Thánh Brigitta và nói: "Mẹ là Nữ Vương
Thiên đàng, là Mẹ thương xót. Mẹ là niềm vui cho người công chính, là cửa cho tội
nhân đến cùng Chúa. Không có người tội lỗi nào mà vô phúc ở ngoài tình thương
xót của Mẹ. Không có người nào bị Chúa ruồng bỏ đến nỗi không trở về với Người
và được Người thương xót nếu họ kêu xin Mẹ hộ giúp. Mọi người đều gọi Mẹ là Mẹ
thương xót. Lòng thương xót của Con Mẹ đối với loài người cũng làm cho Mẹ thương
xót. Mẹ cảm thương mọi người và tha thiết cứu giúp các tội nhân".
13. Nữ Vương hoà
bình. Năm 1917, khi thế giới bị Đệ nhất Thế chiến tàn phá, Đức Bênêđictô XV
thêm vào kinh cầu Đức Bà câu "Nữ Vương ban sự bình an". Mẹ khuyên nhủ
con cái Mẹ hãy thực thi công bình và bác ái để họ được bình an trong Chúa Kitô.
14. Toà khôn
ngoan. Tước hiệu Mẹ là Toà khôn ngoan có từ thời các Thánh Giáo phụ như Thánh
Au-gustinô. Mẹ là ngai toà khôn ngoan, là đền thờ Đấng Khôn Ngoan, vì Mẹ hằng
suy niệm trong lòng những mầu nhiệm của Chúa Giêsu Con Mẹ (Lc 2:19, 51).
15. Mẹ hằng cứu
giúp. Mẹ Maria là Mẹ đầy lòng từ bi thương xót, hằng bênh vực chở che cứu giúp
mọi người trong những nỗi gian nan cơ khổ. Từ thế kỷ III, người ta đã kêu cầu Mẹ
cứu giúp với kinh "Chúng con chạy đến cùng Mẹ". Đức Lêô XIII đã giải
thích rõ ràng. Và Dòng Chúa Cứu Thế chuyên rao giảng về Đức Mẹ hằng cứu giúp.
X. LỊCH SỬ PHỤNG VỤ
Giáo
hội Tây Ban Nha đi tiên phong trong việc mừng lễ Thánh Danh Maria, và được Toà
thánh phê chuẩn năm 1513. Đức Innocentê XI truyền dạy mừng lễ này khắp Giáo hội
năm 1683 để cảm tạ Mẹ trợ phù Gioan Sobieski, vua Balan, chiến thắng quân Hồi
Thổ Nhĩ Kỳ tại Vienna, và được mừng ngày 12 tháng 9, sau lễ Sinh nhật Đức Mẹ bốn
ngày, cũng là ngày chiến thắng Vienna.
Lễ Thánh Danh Mẹ
chỉ là lễ thường, nên đã bị bãi bỏ năm 1970, nhưng năm 1975 được hồi phục là một
lễ Votiva (ngoại lịch).
XI. LỜI CÁC THÁNH
-
Thánh Êphrem: Danh Thánh Maria là chìa khoá mở cửa Thiên đàng.
- Thánh
Ambrôsiô: Lạy Maria, Thánh Danh Mẹ là một thuốc dầu quí giá toả hương ơn Thánh
Chúa. Xin Mẹ cho thuốc dầu Cứu rỗi vào tận thẳm cung trong linh hồn chúng con.
- Thánh Phêrô
Kim ngôn: Danh Thánh Maria biểu lộ đức Trinh khiết.
- Thánh Isiđôrô
Sévilla: Maria có nghĩa là Ánh sáng, vì bởi Mẹ sinh ra Chúa Kitô là Ánh sáng thế
gian.
- Thánh Germanô:
Lạy Mẹ Thiên Chúa, ước chi Thánh Danh Mẹ là tiếng sau cùng phát ra từ môi miệng
con.
- Như hơi thở
không những là một dấu hiệu, mà còn là căn do của sự sống, Danh Thánh Maria
luôn trên môi miệng những tôi tớ Thiên Chúa, chứng tỏ rằng họ thực sự sống động,
đồng thời phát sinh và gìn giữ sự sống của họ và cứu giúp họ mọi lúc.
- Thánh Mêthôđiô:
Lạy Mẹ Thiên Chúa, Thánh Danh Mẹ tràn đầy ơn thánh và phúc lành của Thiên Chúa.
- Thánh Antôn:
Danh Thánh Maria là niềm vui trong cõi lòng, là mật ngọt trong miệng, là âm điệu
vui tai của những tôi tớ Mẹ.
- Thánh
Bônaventura: Lạy Mẹ Maria, Thánh Danh Mẹ huy hoàng tuyệt diệu, vì những người
kêu tên Mẹ lúc chết không phải sợ mọi quyền lực của hoả ngục. Người ta không sợ
đạo binh thù địch hùng mạnh như những quyền lực hoả ngục sợ Danh Thánh Mẹ và sự
che chở của Mẹ.
- Như sáp tan chảy
trước lửa, ma quỉ mất ngụy lực đối với những linh hồn tưởng nhớ và sốt sắng kêu
cầu Thánh Danh Mẹ.
- Danh Thánh này
ngọt ngào rất xứng với một Trinh Nữ thánh thiện dịu dàng, vì Maria có nghĩa là
Biển đắng, là Sao biển, là Đấng sáng soi. Maria được hiểu là Bà Chúa. Maria là
Biển đắng cho ma quỉ, là Sao biển cho người đời, là Đấng sáng soi cho các thiên
thần, là Bà Chúa mọi thụ tạo.
- Thánh Tôma:
Maria có nghĩa là Sao biển, vì như thuỷ thủ được sao biển hướng dẫn vào hải cảng,
các Kitô hữu tới vinh quang nhờ sự cầu bầu Hiền Mẫu của Mẹ Maria.
- Chân phúc
Henri Susô, C.P.: Khi đọc tên Mẹ Maria, tôi cảm thấy bừng lên tình mến và niềm
vui đến nỗi trong nước mắt sung sướng tôi đọc tên cao đẹp này, tôi cảm thấy tim
tôi như thoát ra khỏi ngực, vì tên dịu ngọt này giống như tảng mật ong tan ra
trong chiều sâu thẳng của linh hồn tôi.
- Thánh Bênađinô:
Lạy Đức Nữ Trinh vinh hiển, xin Mẹ cho con sức mạnh, tài năng và lợi khẩu để
con loan truyền vinh quang của Thánh Danh Mẹ cho giáo dân và con cái của Mẹ.
- Thánh
Antôninô: Thánh Danh Maria là niềm vui cho tim con, là mật ong cho môi miệng
con, là nhạc điệu cho tai con.
- Thánh Tôma
Kempi: Quỉ dữ khiếp sợ Nữ Vương thiên đàng đến độ khi nghe tên Mẹ, chúng trốn
chạy như bị lửa hồng.
- Thánh Canisiô:
Sau tên rất thánh và rất đáng kính của Chúa Giêsu, không có tên nào vinh hiển
và quyền năng hơn tên Mẹ Maria. Khi nói đến tên này, các thiên thần vui mừng,
các quỉ dữ run giùng. Kêu xin tên này, các tội nhân được ơn phúc và ơn tha thứ.
- Thánh Lêonarđô
Fort Maurice: Thường tên ngọt ngào Mẹ Maria đọc trên môi, bạn phải hình dung một
kỳ công của quyền năng Thiên Chúa, rất tuyệt hảo và tuyệt vời đến nỗi cánh tay Đấng
Toàn năng không thể tác tạo sự gì hoàn hảo hơn trong mẫu mực một thụ tạo tinh
tuyền.
L.m.
Phêrô, CMC
Nguồn:
http://tinmung.net
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét