Bảy thánh lập Dòng Tôi Tớ Đức Mẹ
PHÚC ÂM:
Mc 8,14-21
“Anh em phải coi chừng men Pha-ri-sêu và
men Hê-rô-đê.”
Tin
Mừng Chúa Giê-su Ki-tô theo thánh Mác-cô.
14 Khi ấy, các môn đệ Đức
Giê-su quên đem bánh theo ; trên thuyền, các ông chỉ có một chiếc bánh. 15 Người
răn bảo các ông : “Anh em phải coi chừng, phải đề phòng men Pha-ri-sêu và men
Hê-rô-đê !” 16
Các ông mới bàn tán với nhau về chuyện các ông không có bánh. 17 Biết
thế, Người nói với các ông : “Sao anh em lại bàn tán về chuyện anh em không có
bánh ? Anh em chưa hiểu chưa thấu sao ? Lòng anh em ngu muội thế ! 18 Anh
em có mắt mà không thấy, có tai mà không nghe ư ? Anh em không nhớ sao : 19 khi
Thầy bẻ năm chiếc bánh cho năm ngàn người ăn, anh em đã thu lại được bao nhiêu
thúng đầy mẩu bánh ?” Các ông đáp : “Thưa được mười hai.” 20 “Và khi Thầy bẻ bảy chiếc bánh
cho bốn ngàn người ăn, anh em đã thu lại được bao nhiêu giỏ đầy mẩu bánh ?” Các
ông nói : “Thưa được bảy.” 21 Người bảo các ông : “Anh em chưa hiểu ư ?”
Suy niệm:
COI CHỪNG MEN PHA-RI-SÊU
Hai bài đọc của Phụng vụ Lời Chúa hôm nay đều nói tới tàu thuyền.
Con tàu của ông Noe và con thuyền của Chúa Giêsu. Thời gian hai con tàu xuất hiện
khác nhau, dù có lộn xộn vì đông đảo súc vật, hay mù tối vì môn đệ không hiểu lời
Chúa dạy; nhưng có điểm chung là chúng chứa ơn cứu chuộc.
Con tàu của ông Noe chở cả gia đình ông, chở
súc vật: “Trong các súc vật thanh sạch, ngươi hãy bắt mỗi thứ bảy con đực bảy
con cái, còn trong các loài vật không thanh sạch, ngươi hãy bắt mỗi thứ hai con
đực hai con cái. Nhưng các chim trời, ngươi hãy bắt mỗi thứ bảy con trống bảy
con mái, để bảo tồn nòi giống các loài ấy trên mặt đất”. Như vậy, con tàu của
Noe là cứu cánh để gia đình ông và muôn vật cư ngụ trong đó được cứu thoát khỏi
hồng thủy, nhờ đó mà loài thọ sinh được duy trì.
Chiếc thuyền của Chúa Giêsu có Chúa Giêsu
là nguồn ơn cứu độ, và chở các môn đệ của Ngài, những người sẽ tiếp nối Ngài
trong vai trò cứu nhân độ thế. Trong thuyền, ta thấy họ không hiểu Chúa Giêsu,
nhưng Chúa uốn nắn, dạy dỗ họ từ từ để chuẩn bị thi hành sứ mạng.
Con tàu Noe, chiếc thuyền của Chúa ngày hôm
nay là Giáo Hội. Chẳng hạn, Bí tích Rửa tội làm cho người ta được gia nhập Hội Thánh được
ví như con tàu Noe, ai ở trong đó thì được cứu. Giáo Hội được ví như con thuyền
chở tình yêu, chở Tin Mừng cứu độ đến cho khắp cùng thế giới.
“Thù trong” thường đáng sợ hơn “giặc
ngoài”. Nói vậy, không có nghĩa “giặc ngoài” không đáng lo. Chúa Giê-su không chỉ
kêu gọi gìn giữ tâm hồn ngay chính, Ngài còn nhắc nhở các môn đệ phải coi chừng
cả những ảnh hưởng xấu của nhóm Pha-ri-sêu và Hê-rô-đê, ấy là sự xơ cứng lương
tâm. Sau khi chứng kiến phép lạ Chúa chữa người bại tay, nhóm Pha-ri-sêu không
tin quyền năng của Ngài thì chớ, lại còn tìm cách giết Ngài (Mc 3,5). Còn
Hê-rô-đê và thuộc hạ của ông, sau khi nghe biết những phép lạ Chúa Giê-su làm,
đã không tin nhận Ngai, và cho rằng Ngài là Gioan Tẩy Giả sống lại (Mc 6,16). Sự
xơ cứng lương tâm đưa con người đến chỗ “dị ứng” với điều tốt, và thản nhiên với
điều xấu, và tệ hơn nữa, tìm cách hủy diệt sự thật, công bằng và tình thương.
Thánh giáo hoàng Gio-an Phao-lô II gọi đó là “nền văn minh sự chết.” Loại men
“sự chết” này đang lăm le làm dậy lên một thế giới của “sự chết” trong thời đại
hôm nay.
Sống Lời Chúa:
Khuyên nhủ hay hành động giúp người khác
tôn trọng sự sống thai nhi, quý trọng và gìn giữ bầu khí thuận hòa trong gia đình.
Cầu nguyện:
Lạy
Chúa là Đấng cứu độ chúng con. Xin cho chúng con biết đón nhận Tin Mừng cứu độ,
và cho muôn nhân mau được hợp đoàn với chúng con trong con thuyền Hội Thánh, để
cùng tuyên xưng một đức tin; cùng thực thi một đức ái và cùng sống một đức cậy
trông vững vàng.
Lẽ sống:
Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ
Bỏ
xứ mình để đến phục vụ tại nơi đất khách quê người quả là một lý tưởng đáng ca
ngợi. Hiện nay, người ta thấy có rất nhiều thanh niên thiếu nữ tây phương chán
cuộc sống trống rỗng, thiếu lý tưởng trong xã hội dư dật, đã tình nguyện sang
các nước thuộc thế giới thứ ba để phục vụ.
Một
thanh niên nọ đã xin đến Ấn Ðộ để phục vụ người nghèo. Ra đi hồ hởi bấy nhiêu,
giờ này chạm với thực tế, anh cảm thấy thất vọng bấy nhiêu. Tất cả đều xa lạ và
tất cả đều làm anh chán nản: từ khí hậu cho đến thức ăn, điều kiện sống và nhất
là những khuôn mặt xem ra rất bí hiểm đối với anh. Nhưng điều làm cho anh mất
hết kiên nhẫn lại là một điều không đáng bận tâm mấy...
Người
ta dành cho anh một căn phòng không sạch sẽ và dĩ nhiên cũng không nhiều tiện
nghi lắm. Anh dọn dẹp và sắp xếp căn phòng lại cho tươm tất. Duy có một chướng
ngại mà anh không thể vượt qua để có thể sống bình thản: đó là sự hiện diện của
một chú thằn lằn. Anh tìm đủ mọi cách để xua đuổi nó ra khỏi căn phòng, nhưng
vô ích: đâu lại vào đó, anh đuổi nơi này, nó chạy vào nơi khác. Cuối cùng con
vật chui được vào trong tủ đựng thức ăn và ngự trị hẳn trong đó. Không còn biết
làm cách nào khác hơn để tẩy chay con vật, anh đành phải nghĩ đến chuyện làm
quen với nó.
Dần
dần, con thú đã trở thành một người bạn của anh. Mỗi khi đi đâu về, việc đầu
tiên của anh là tìm cho được chú thằn lằn. Khi con vật đã trở thành thân thiết
với anh, anh đặt cho nó một cái tên và trò chuyện với nó. Từ một con vật dơ bẩn
xấu xa, giờ này anh nhìn thấy nơi nó rất nhiều đức tính trong đó quan trọng hơn
cả đó là tài săn muỗi của nó.
Sự hiện diện của chú thằn lằn
đã giúp cho anh khám phá được một chân lý trong cuộc sống: những khó khăn không
đến từ môi trường chung quanh, mà chính từ bản thân anh.
Chúng
ta vẫn thường lặp lại câu thơ của Nguyễn Du: "Người buồn cảnh có vui đâu bao
giờ", như để nói rằng lắm khi chúng ta mặc cho ngoại cảnh chính tâm trạng
của chúng ta. Khi chúng ta vui, chúng ta như thấy cảnh vật xung
quanh chúng ta cũng vui lây. Khi chúng ta buồn, cảnh có đẹp đến đâu, chúng ta
vẫn thấy u ám. Lắm khi những vấn đề khó khăn không đến với chúng ta từ ngoại
cảnh, từ những người khác, mà chính từ chúng ta. Gương mặt cau có của chúng ta
thường được chúng ta nhìn thấy nơi tất cả mọi người xung quanh. Trái lại, khi
chúng ta vui, chúng ta như cảm thấy mọi người đều vui vẻ với chúng ta. Quả
thật, chúng ta đong đấu nào, thì người sẽ đong lại đấu ấy cho chúng ta.
Câu chúc đầu tiên của Ðức Kitô
phục sinh mỗi lần hiện ra cho các môn đệ của Ngài là: :bình an cho các
con". Có sự bình an đích thực trong tâm hồn, chúng ta mới thắng được sợ
hãi, mới vượt qua được những khó khăn trong tâm hồn. Có sự bình an đích thực
trong tâm hồn, chúng ta mới dễ dàng tha thứ và chấp nhận chính bản thân để rồi
từ đó mới có thể tha thứ và chấp nhận tha nhân cũng như mọi nghịch cảnh. Mang
lấy màu xanh của hy vọng, đôi mắt chúng ta mới dễ dàng nhìn đời, nhìn người một
cách lạc quan. Trái lại, mang lấy bộ mặt cau có và buồn chán, đi đâu, ở đâu,
chúng ta cũng chỉ thấy bất mãn, thất vọng và khó chịu.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét