Thứ Bảy, 29 tháng 11, 2014

Lời Chúa: Chúa Nhật I Mùa Vọng năm B. 30.11.2014

PHÚC ÂM:   Mc 13,33-37
“Anh em phải canh thức : anh em không biết khi nào chủ nhà đến.”
Tin Mừng Chúa Giê-su Ki-tô theo thánh Mác-cô.
33 Khi ấy, Đức Giê-su nói với các môn đệ rằng : “Anh em phải coi chừng, phải tỉnh thức, vì anh em không biết khi nào thời ấy đến. 34 Cũng như người kia trẩy phương xa, để nhà lại, trao quyền cho các đầy tớ của mình, chỉ định cho mỗi người một việc, và ra lệnh cho người giữ cửa phải canh thức. 35 Vậy anh em phải canh thức, vì anh em không biết khi nào chủ nhà đến : lúc chập tối hay nửa đêm, lúc gà gáy hay tảng sáng. 36 Anh em phải canh thức, kẻo lỡ ra ông chủ đến bất thần, bắt gặp anh em đang ngủ. 37 Điều Thầy nói với anh em đây, Thầy cũng nói với hết thảy mọi người là : phải canh thức !”
Suy niệm
Chờ đợi trong tỉnh thức

Ai trong chúng ta cũng đã có những lúc chờ đợi: chờ đợi một biến cố hoặc một người thân. Chờ đợi bao giờ cũng làm chúng ta hồi hộp, trăn trở, nôn nóng. Những lúc chờ đợi, dường như thời gian trôi chậm hơn. Khi chờ đợi một sự kiện hay một người thân, cũng là lúc chúng ta liên tưởng nhiều về sự kiện hay về người thân đó. Sự chờ đợi càng lâu, niềm vui càng lớn lao và vỡ òa khi gặp gỡ.
Năm Phụng vụ khởi đầu với một thời gian mang tên “Mùa Vọng” hay “Mùa Đợi”. Mùa Phụng vụ này nhắc nhớ chúng ta đợi chờ Chúa đến trong cuộc đời. Thực ra, Thiên Chúa vẫn hiện diện và tỏa ánh vinh quang của Ngài trong cuộc sống, nhưng để gặp gỡ Ngài, mỗi người phải nỗ lực tìm kiếm và mở rộng tâm hồn để đón tiếp Ngài. Những ai thành tâm tìm kiếm và gặp gỡ Chúa sẽ được Ngài hướng dẫn và phù trợ. Có Chúa trong đời, chúng ta sẽ tìm thấy niềm vui và hạnh phúc.
Chúa vẫn hiện diện, như dòng suối vẫn miên man chảy tứ thời bát tiết. Người thành tâm kiếm tìm Chúa sẽ giống như người đến múc nước nơi dòng suối và mang về nhà mình. Sự hiện diện của Thiên Chúa trong đời chúng ta thật lạ kỳ. Bởi lẽ Chúa vừa hữu hình vừa vô hình, vừa hiện diện, vừa vắng mặt. Người tìm được Chúa rồi, lại khao khát tiếp tục tìm Chúa để hiểu biết Chúa hơn, vì gặp gỡ Chúa đem lại sự dịu ngọt và niềm vui hạnh phúc cho tâm hồn. Hiểu như thế, suốt cuộc đời tín hữu chúng ta là một vòng xoay của sự chờ đợi, tìm kiếm, gặp gỡ, rồi lại tìm kiếp tiếp cho đến khi thực sự gặp Chúa trực tiếp, mặt giáp mặt chứ không còn như trong gương. Đó là tình trạng hạnh phúc thiên đàng những ai yêu mến Chúa sẽ được hưởng.
Ngôn sứ Isaia diễn tả niềm mong đợi Chúa của dân Israen (Bài đọc I). Đối với những người Do Thái lưu đày, họ cảm nghiệm được nỗi đau của kiếp nô lệ. Không còn Đền thờ, không còn lễ nghi phục vụ, họ thấy cuộc sống của họ thật vô nghĩa. Họ cần Chúa như con người cần hơi thở, như cỏ cây cần ánh mặt trời. Vắng Chúa, cuộc đời họ sẽ suy tàn, sự nhơ uế sẽ lan tràn khắp chốn. Lời cầu nguyện của vị ngôn sứ cũng là lời than van của dân chúng. Họ cầu xin Chúa đến để nâng đỡ và giải thoát họ, đem cho họ ánh sáng và niềm tin.
Niềm khao khát của Israen cũng là niềm khao khát của thời đại chúng ta. Con người thời nay cậy dựa vào những triết thuyết vô thần và những thành tựu của khoa học để chối bỏ Thiên Chúa. Thay vì tôn thờ Đấng Tạo Hóa, người ta tôn thờ khoa học kỹ thuật vì cho rằng khoa học kỹ thuật có thể trả lời được mọi vấn nạn của cuộc sống. Đức Giáo Hoàng Bênêđitô XVI đã viết:“Chủ nghĩa nhân bản loại trừ Thiên Chúa là một chủ nghĩa phi nhân. Chỉ có thứ nhân bản mở ra cho Tuyệt  Đối mới có thể giúp ta cổ võ và đạt được được những hình thức sống xã hội và dân sự - trên bình diện cơ cấu, tổ chức, văn hoá, đạo đức -, bằng cách nó giữ ta khỏi rơi vào tình trạng nô lệ cho những cái mốt, những cái thời thượng”(Thông điệp Bác ái trong Chân lý, số 78). Đây cũng là cám dỗ lớn nhất mà loài người từ thời nguyên thủy đã gặp phải, đó là muốn nên như Thiên Chúa và tin rằng có thể thay thế Ngài (x. St chương 3). Nhân loại của chúng ta hơn bao giờ hết đang cần đến Thiên Chúa. Xã hội Việt Nam của chúng ta hôm nay cho thấy kinh nghiệm rõ về điều này: một khi khước từ Thiên Chúa, hậu quả là cuộc sống đầy bạo lực, giết chóc, tệ nạn xã hội, lừa đảo dối trá, luân thường đạo lý suy đồi.
Lời Chúa hôm nay nói đến nỗ lực cố gắng của chúng ta trong khi chờ đợi Chúa. Chúa Giêsu đã dùng hình ảnh một người chủ đi xa trao nhà cho đầy tớ coi sóc. Mỗi người một việc, người thì coi ban ngày, người thì gác ban đêm. Ông chủ sẽ về bất cứ lúc nào. Những người coi nhà buộc phải tỉnh thức và thận trọng để lúc chủ về, không những thấy họ còn thức mà còn thấy tài sản còn nguyên vẹn.
Mùa Vọng giống như “nốt nhấn” của bản nhạc cuộc đời. Đây là thời điểm Giáo Hội mời gọi chúng ta xác định vị trí của Chúa trong đời chúng ta cũng như tình trạng tâm hồn của mình. Chúa đang đến trong cuộc đời chúng ta. Lễ Giáng Sinh là một kỷ niệm đẹp của mối tình Thiên Chúa – Con người. Sau bao thế hệ xa cách, nay Thiên Chúa đã chủ động đến với con người. Ngài hạ cố đến gặp gỡ con người và tâm tình nghĩa thiết với họ. Đức Giêsu, Ngôi Lời nhập thể, chính là bằng chứng hữu hình của sự nghĩa thiết ấy.
Chờ đợi trong tỉnh thức, đó là tâm tình của mỗi tín hữu chúng ta trong suốt cuộc đời. Lạy Chúa, xin hãy xé trời mà ngự xuống. Xin hãy đến để nâng đỡ và soi sáng chúng con. Amen.

Đức Cha Giuse Vũ Văn Thiên
Giám mục Giáo phận Hải Phòng

Cầu nguyện:
Lạy Ðức Giêsu, Chúa đã trao cho mỗi người chúng con một trách nhiệm trong gia đình, trong họ đạo, trong đất nước, và dạy chúng con phải tỉnh thức. . . Xin Chúa giúp chúng con luôn tỉnh thức để chu toàn trách nhiệm Chúa đã trao và sẵn sàng chờ ngày Chúa đến. Chúa là Ðấng hằng sống và hiển trị muôn đời.

Lẽ sống:
Bảo chứng của trường sinh bất tử

Công chúa Touwan bên Trung Quốc từ trần vào khoảng năm 104 Trước Công Nguyên, nhưng được những người sinh sống đồng thời tin tưởng là bà sẽ trường sinh bất tử vì bà được an táng trong một quan tài bằng ngọc thạch. Chồng bà nhắm mắt lìa đời 9 năm trước đó cũng được an táng trong một quan tài tương tự.
Ðôi vợ chồng được an nghỉ trong hai ngôi mộ xây cất trong vùng đồi núi hoang vu. Mãi đến năm 1969 người ta mới khám phá ra và cả thế giới ngạc nhiên trước sự giàu sang của thời đại ấy được biểu lộ qua 2,800 của lễ được dâng tặng lúc cử hành lễ an táng, nhưng đặc biệt nhất là hai cái quan tài, mỗi cái gồm tất cả hai ngàn mảnh ngọc nhỏ được kết chung lại bằng những sợi chỉ bằng vàng.
Những người sinh sống vào thời đại ấy quan niệm rằng: vàng và ngọc thạch không bị thời gian làm hư hại vì thế chúng là bảo chứng cho sự trường sinh bất tử.
Trên ba vòng bán nguyệt của khung cửa chính ở nhà thờ chánh tòa Milanô bên Italia có khắc ba dòng chữ:
- Phía dưới hình một hoa hồng được chạm trổ tinh vi của một vòng bán nguyệt, người ta đọc được hàng chữ: "Mỗi hạnh phúc chỉ kéo dài trong khoảnh khắc".
- Bên vòng bán nguyệt của khung cửa kia, dưới hình một cây thập giá có ghi hàng chữ: "Mỗi đau khổ chỉ kéo dài trong một khoảnh khắc".
- Ở vòng nguyệt của khung cửa giữa dẫn vào lòng chính của vương cung thánh đường có khắc dòng chữ: "Chỉ có sự đời đời mới là quan trọng".
Ở giữa một bên là quan niệm đi tìm thuốc tiên hay sử dụng quan tài bằng ngọc thạch để được trường sinh bất tử và bên kia là quan niệm cuộc đời con người chấm cùng bằng cái chết, những người Kitô hữu xây dựng cuộc sống vĩnh cửu bằng những giây phút hiện tại và tin tưởng rằng cái chết là ngưỡng cửa dẫn vào cuộc sống đời đời và chính cuộc sống này mới thực sự quan trọng.
Vì thế họ chọn thái độ "sống gửi thác về". Họ thu nhặt những giá trị qúi như vàng ngọc bằng cách sống tốt, sống thật những giây phút hiện tại, bằng cách áp dụng "hai đạo luật vàng: mến chúa yêu người", vì họ biết rằng chỉ có những gì được làm vì tình yêu mới có giá trị vĩnh cửu.
Vì thế họ quan niệm đời sống là một cuộc hành trình, phải luôn cất bước ra đi: nước mắt, nụ cười chỉ có giá trị tương đối, để mỗi ngày họ bắt đầu lại, mỗi ngày họ cất một bước chân mới đi về nhà cha. Năm phụng vụ đã kết thúc. Giáo hội mời gọi chúng ta tiếp tục sống, nhưng với chú tâm sống tốt, sống thật từng phút giây hiện tại vì chúng là những hạt cát, những viên gạch xây dựng cho cuộc sống mai sau.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét