Thứ Tư, 16 tháng 12, 2015

Lời Chúa: Thứ Bảy sau Chúa nhật III Mùa Vọng 19.12.2015

PHÚC ÂM: Lc 1,5-25
"Thiên thần Gabriel báo trước việc Gioan Tẩy Giả sinh ra". (Lc 1,13).
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.
5 Thời vua Hê-rô-đê cai trị miền Giu-đê, có một vị tư tế thuộc nhóm A-vi-gia, tên là Da-ca-ri-a ; vợ ông là Ê-li-sa-bét cũng thuộc dòng tộc tư tế A-ha-ron. 6 Cả hai ông bà đều là người công chính trước mặt Thiên Chúa, sống đúng theo mọi điều răn và mệnh lệnh của Chúa, không ai chê trách được điều gì. 7 Nhưng họ lại không có con, vì bà Ê-li-sa-bét là người hiếm hoi. Vả lại, cả hai đều đã cao niên.
8 Sau đây là chuyện xảy ra trong lúc ông đang lo việc tế tự trước nhan Thiên Chúa khi đến phiên của nhóm ông : 9 Trong cuộc bắt thăm thường lệ của hàng tư tế, ông đã trúng thăm được vào dâng hương trong Đền Thờ của Đức Chúa. 10 Trong giờ dâng hương đó, toàn thể dân chúng cầu nguyện ở bên ngoài.
11 Bỗng một sứ thần của Chúa hiện ra với ông, đứng bên phải hương án. 12 Thấy vậy, ông Da-ca-ri-a bối rối, và nỗi sợ hãi ập xuống trên ông. 13 Nhưng sứ thần bảo ông : "Này ông Da-ca-ri-a, đừng sợ, vì Thiên Chúa đã nhận lời ông cầu xin : bà Ê-li-sa-bét vợ ông sẽ sinh cho ông một đứa con trai, và ông phải đặt tên cho con là Gio-an. 14 Ông sẽ được vui mừng hớn hở, và nhiều người cũng được hỷ hoan ngày con trẻ chào đời.
15 Vì em bé sẽ nên cao cả trước mặt Chúa. Rượu lạt rượu nồng em sẽ đều không uống. Và ngay khi còn trong lòng mẹ, em đã đầy Thánh Thần. 16 Em sẽ đưa nhiều con cái Ít-ra-en về với Đức Chúa là Thiên Chúa của họ. 17 Được đầy thần khí và quyền năng của ngôn sứ Ê-li-a, em sẽ đi trước mặt Chúa, để làm cho lòng cha ông quay về với con cháu, để làm cho tâm tư kẻ ngỗ nghịch lại hướng về nẻo chính đường ngay, và chuẩn bị một dân sẵn sàng đón Chúa." 18 Ông Da-ca-ri-a thưa với sứ thần : "Dựa vào đâu mà tôi biết được điều ấy ? Vì tôi đã già, và nhà tôi cũng đã lớn tuổi." 19 Sứ thần đáp : "Tôi là Gáp-ri-en, hằng đứng chầu trước mặt Thiên Chúa, tôi được sai đến nói với ông và loan báo tin mừng ấy cho ông. 20 Và này đây ông sẽ bị câm, không nói được, cho đến ngày các điều ấy xảy ra, bởi vì ông đã không tin lời tôi, là những lời sẽ được ứng nghiệm đúng thời đúng buổi." 21 Dân chúng đợi ông Da-ca-ri-a, và lấy làm lạ sao ông ở lại trong cung thánh lâu như thế. 22 Lúc đi ra, ông không nói với họ được, và dân chúng biết là ông đã thấy một thị kiến trong cung thánh. Còn ông, ông chỉ làm hiệu cho họ và vẫn bị câm. 23 Khi thời gian phục vụ ở Đền Thờ đã mãn, ông trở về nhà. 24 Ít lâu sau, bà Ê-li-sa-bét vợ ông có thai, bà ẩn mình năm tháng. 25 Bà tự nhủ : "Chúa đã làm cho tôi như thế đó, khi Người thương cất nỗi hổ nhục tôi phải chịu trước mặt người đời."

Suy niệm:
Mỗi người một sứ mạng Chúa trao

Gần đến lễ Giáng Sinh, phụng vụ lời Chúa giới thiệu cho chúng ta những thụ thai lạ lùng.
Thứ nhất là câu chuyện của vợ ông Manuel trong sách Thủ Lãnh. Bà này tủi nhục vì thân phận son sẻ của mình. Thiên Chúa đã đoái thương đến cảnh khổ của bà nên sai sứ thần đến báo tin bà sẽ mang thai. Sứ thần cho bà biết thai này không phải do khả năng của con người, nhưng hoàn toàn do Thiên Chúa muốn ban cho vợ chồng bà: “Này, bà là người son sẻ và sẽ không sinh con, nhưng bà sẽ có thai và sinh một con trai”. Sứ thần còn cho biết sứ mạng của đứa bé này là “sẽ cứu dân Israel khỏi tay người Philitinh”.
Để Thần Khí của Đức Chúa có thể ở với nó để nó có thể cứu dân mình, thì phải tuân theo một số nguyên tắc: Không được uống thức có men, không được ăn những thứ không thanh sạch, không được cạo râu, hớt tóc… Điều này nghĩa là một người được thánh hiến cho Thiên Chúa để có thể thi hành sứ mạng Ngài trao thì phải tuân giữ những kỷ luật rất khắt khe. Đứa bé đó chính là Samsom. Nhờ cha mẹ và bản thân Samson tuân giữ đúng theo lệnh truyền của Đức Chúa, nên chàng đã có một sức mạnh phi thường. Tuy nhiên chính lúc Samson vi phạm lời thề Nadia (Nazir), thì chàng đã mất tất cả. Nhờ biết hối lỗi và nhớ đến sứ mạng của mình, nên Samson đã cầu nguyện với Chúa ban cho mình cơ hội cuối cùng để đoái công chuộc tội. Quả thật Thiên Chúa đã nhậm lời ông để ban cho ông có lại sức mạnh lần cuối cùng để tiêu diệt quân Philitinh.
Câu chuyện thứ hai là câu chuyện của vợ chồng ông Giacaria. Vốn là thượng tế, nhưng vợ chồng ông vẫn mang cảnh tủi nhục vì son sẻ. Nhưng nhờ lời cầu nguyện tha thiết của hai ông bà, nên Thiên Chúa đã đoái thương đến gia đình ông trong một lần ông được vào gian cực thánh để dâng lễ vật cho Thiên Chúa. Cũng vậy sứ thần báo cho ông biết về sự mang thai lạ lùng của vợ ông, cũng như sứ mạng của đứa bé và điều kiện để đứa bé này có thể thi hành sứ mạng của mình.
Qua hai câu chuyện về những đứa bé được sinh ra một cách khác thường, chúng ta thấy được Thiên Chúa luôn muốn cất khỏi sự tủi nhục cho những người tin tưởng vào Chúa. Đồng thời, còn cho những đứa bé này trở thành những nhân vật có tầm ảnh hưởng trong lịch sử dân tộc của nó. Quan trọng hơn cả là Thiên Chúa muốn báo cho nhân loại về một Đấng sẽ cứu cả nhân loại chứ không phải chỉ một dân tộc nào; một Đấng sẽ cất khỏi mặt đất sự tủi nhục của dân người.
Thiên Chúa cũng muốn trao cho mỗi người một sứ mạng quan trọng. Vì vậy mỗi người phải có những nguyên tắc để cuộc sống của họ được gắn bó với Chúa, hầu có thể thi hành sứ mạng Chúa trao. Để giữ nguyên tắc đó đòi hỏi con người phải có kỷ luật khắt khe để tránh cho mình bị “ô nhiễm” bởi những điều bất xứng.

Sống Lời Chúa:
Mỗi người chúng ta được sinh ra cũng là một sự kỳ diệu. Chính vì vậy chúng ta phải luôn luôn biết ơn Chúa.

Cầu nguyện:
Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã dựng nên con và cứu chuộc con để con được hạnh phúc đời đời. Xin cho con cũng trở thành dụng cụ để Chúa có thể dùng để cứu người khác. Xin cho con biết tránh xa những điều xấu và sống gắn bó với Chúa nhiều hơn.

Lẽ sống:
Hợp tác là an toàn

Ngày nay, khi đi trên các nẻo đường của nước Thụy Sĩ, người ta lại nhìn thấy một tấm biển lớn, trên đó trình bày hai chiếc xe hơi, một chiếc màu đỏ, một chiếc màu xanh. Cả hai xe đi cùng chiều, những người ngồi trên hai xe đang chào nhau, cười với nhau. Người lái xe xanh đang ra dấu cám ơn lại bằng cách giở mũ chào.
Ở phần dưới tấm biển có ghi một hàng chữ: "Hợp tác là an toàn". Ðiều này muốn nói lên rằng giúp đỡ lẫn nhau, đối xử với nhau như người cộng sự, bằng tình bằng hữu là một đảm bảo cho một cuộc hành trình không nguy hiểm. Tinh thần hợp tác không những chỉ đảm bảo cho một cuộc sống bình yên trên các lộ trình, mà cũng còn là một đảm bảo cho một cuộc sống bình yên ở mọi vị trí trong xã hội. Có tinh thần hợp tác là đặt kẻ khác vào chính vị trí của mình, quan tâm tới họ như quan tâm tới chính mình, kính trọng, yêu mến, giúp đỡ họ như kính trọng, yêu mến giúp đỡ chính mình vậy.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét